CHUNG NHAN HOP QUY PHAN BON Với Cty CP đầu tư thương mại ôtô quốc tế và Cty CP truyền thông OXY do đơn vị mới được cấp giấy hợp quy cuối năm 2012 nên chưa tổ chức sản xuất và chưa có sản phẩm hợp quy cung cấp cho thị trường
I. chung nhan hop quy phan bon Các đội QLTT còn phát hiện hàng loạt cửa hàng tự in tem hợp quy để qua mặt các cơ quan chức năng
Nông dân rất phân vân khi chọn mua phân bón NPK Chỉ trong một tuần ra quân kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật trong hoạt động SXKD phân bón, đoàn kiểm tra liên ngành tỉnh Trà Vinh đã lấy 37 mẫu phân hữu cơ và vô cơ gửi đi kiểm nghiệm. Kết quả, có 5 mẫu phân hữu cơ, 3 mẫu phân vô cơ không đạt chất lượng so với tiêu chuẩn công bố. Sản phẩm phân vô cơ của các Cty sản xuất không đảm bảo chất lượng gồm: Phân bón NPK cao cấp JAPAN 23 - 23 - 0 - 10 SiO2 + TE do Cty CP phân bón Phúc Hưng số 19 Liên khu 2 – 5, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, TP.HCM sản xuất. Phân bón NPK cao cấp 20 - 20 - 15 + TE do Cty TNHH MTV Phạm Hoàng số 34 quốc lộ 30 xã An Bình, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp sản xuất. Phân bón NPK cao cấp 20 - 20 - 15 + TE của Cty TNHH SXTMDV XNK Việt Quang số 297A khu phố 3, phường Tân Phú, TP Bến Tre. Đối với phân hữu cơ, trong đợt ra quân cuối tháng 8/2014, Đoàn thanh tra Sở NN-PTNT đã phát hiện 5 mẫu không đạt chất lượng so với thành phần công bố trên bao bì. Trong số 5 mẫu kiểm tra không đạt thì có 3 mẫu của 3 Cty yêu cầu kiểm tra lại và chưa có kết quả. Ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Công thương Trà Vinh cho biết: Sở Công thương quản lý phân bón vô cơ. Kế hoạch kiểm tra là không lên lịch, kiểm tra đột xuất ngay đầu vụ, lấy tất cả mẫu phân vô cơ và hữu cơ mang đi kiểm nghiệm. Kinh phí kiểm nghiệm ban đầu từ nguồn hoạt động của Sở Công thương. Trong quá trình đi kiểm tra lấy mẫu, trưởng đoàn để lộ thông tin là phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở. Khi có kết quả kiểm tra, sai phạm đối với phân vô cơ thì Sở Công thương xử phạt, phân hữu cơ thì Sở NN-PTNT xử phạt. Qua đợt ra quân kiểm tra đột xuất việc SXKD phân bón trên địa bàn Trà Vinh đã lộ rõ cơ chế quản lý chưa nghiêm. Mức phạt đối với một mẫu phân bón kém chất lượng, phân giả quá thấp. Để giảm được nạn gian lận thương mại trong việc sản xuất kinh doanh phân bón, trong thời gian tới, kiến nghị Bộ Công thương, Chính phủ xem xét có chế tài mạnh đối với những cơ sản sản xuất và rút giấy phép kinh doanh đối với đại lý tiêu thụ hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng. Sở Công thương Trà Vinh đã gửi văn bản đến Sở Công thương các tỉnh có Cty sản xuất hàng giả, kém chất lượng để tiến hành kiểm tra và xử lý tại gốc. - Chủng loại phân bón: Dùng phân đa yếu tố ĐYT NPK chuyên dùng cho cây lúa:+ Bón lót : Bằng phân ĐYT NPK 6.11.2 chuyên dùng bón lót cho lúa dạng trộn trộn 3 hạt. Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=6%, P2O2=11%, K2O=2%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=10%, CaO=20%, SiO2=15% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 60%.+ Bón thúc: Bằng phân ĐYT NPK 16.5.17 chuyên dùng bón thúc cho lúa dạng trộn 3 hạt. Thành phần dinh dưỡng: Ngoài các chất đa lượng là N=16%, P2O5=5%, K2O=17%; còn có các chất trung lượng là S=2%, MgO=5%, CaO=8%, SiO2=7% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co... Tổng hàm lượng dinh dưỡng hop quy, phan bon npk trên 60%.- Mức bón kg/sào 360m2:1. Đối với lúa Xuân:2. Đối với lúa mùa:- Cách bón:1. Bón lót: - Đối với lúa cấy: Bón lúc bừa hoặc trước khi bừa lần cuối, cùng với phân chuồng để vùi sâu phân xuống dưới, sau đó để lắng đất, gạn bớt nước trong rồi mới cấy. Trường hợp nước lớn, ruộng có bờ bao, nước không chảy vẫn bón bình thường, lưu ý tránh không để chảy mất nước đục sẽ mất phân.- Đối với lúa gieo sạ: Bón ngay khi bừa chít trước khi lên luống gieo sạ. Nếu không có phân chuồng thì bón tăng lượng phân ĐYT NPK 6.11.2 bón lót thêm 2-3 kg/sào.2. Bón thúc: - Đối với lúa cấy: Trong vụ xuân, bón thúc ngay khi lúa ra lá mới lá nõn dong; trong vụ mùa, bón sau cấy 7- 10 ngày.- Đối với lúa gieo sạ: Trong vụ xuân, bón khi cây lúa có 3,5 – 4 lá lúa bắt đầu đẻ nhánh; trong vụ mùa, bón khi cây lúa bắt đầu đẻ nhánh.Chỉ ở những chân ruộng mỏng mầu, rão nước, cát pha thì mới phải bón thúc lần 2 vào thời kỳ đón đòng, dùng 4kg - 5kg NPK 16.5.17 để thúc vào buổi chiều tạnh nắng, tuyệt đối không để phân dính trên lá. Lưu ý: Sử dụng phân ĐYT NPK chuyên dùng cho lúa giúp cây lúa khỏe, chống đổ tốt, đẻ nhánh tập trung, số dảnh hữu hiệu cao, lá đòng bền, có màu xanh vàng sáng, hạt mẩy, vỏ hạt sáng, ít sâu bệnh, năng suất cao, cải thiện độ chua của đất, hạn chế rong rêu, giảm lượng vôi bón ở chân ruộng chua, trũng. Sử dụng phân ĐYT NPK Văn Điển chuyên dùng cho lúa theo đúng chỉ dẫn không phải bón thêm bất kỳ loại phân nào khác, là chìa khóa để đạt được hiệu quả thâm canh cao.. Dự án làm sống lại loài động vật cổ xưa của Trái đất này còn có sự hợp tác của các nhà khoa học Hàn Quốc với kinh nghiệm phong phú trong việc nhân bản vật nuôi, là một trong các yếu tố cấu thành năng suất. Trong số các thị trường cung cấp mặt hàng phân bón cho Việt Nam, giảm 2/3 sản lượng so cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó một số nguyên liệu trong nước như quặng apatit ngoài việc tăng giá thì cung ứng cũng rất khó khăn do hạn chế về vận tải đường sắt và đường biển, thiếu và người nông dân phải mua giá cao khi nhu cầu sử dụng phân bón tăng cao là điều không tránh khỏi. Qua mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại huyện Đông Triều cho thấy, còn tỷ lệ giữa các dưỡng chất này phụ thuộc vào từng tiểu vùng khác nhau ví dụ cũng là vùng phù sa nhưng vùng phù sa đầu nguồn một phần của An Giang và một phần của Đồng Tháp nằm cặp 2 sông Tiền và Hậu bón khác so với vùng phù sa Tây sông Hậu.
Phân bón DAP NK từ Trung Quốc qua đường tiểu ngạch. Ảnh: PHAN THU Thừa vẫn nhập Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, 5 tháng đầu năm, NK phân bón giảm mạnh cả lượng và giá trị. Cụ thể, ước tính khối lượng NK phân bón các loại trong tháng 5 đạt 159 nghìn tấn với giá trị 43 triệu USD, đưa khối lượng NK phân bón 5 tháng đầu năm đạt gần 1,31 triệu tấn, kim ngạch NK đạt 405 triệu USD, giảm 14,9% về lượng và giảm 35,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, khối lượng NK phân urê ước đạt 27 nghìn tấn với giá trị 8,9 triệu USD, giảm 71,7% về lượng và giảm 75,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013; phân SA ước đạt 396 nghìn tấn với giá trị NK 55 triệu USD, giảm 1,8% về lượng nhưng giảm tới 32,9% về giá trị. Nguồn phân bón NK chủ yếu từ Trung Quốc, chiếm tới 45,3% tổng kim ngạch NK. Phát biểu tại hội thảo quốc gia thực hiện Nghị định 202/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý phân bón và chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững mới đây, ông Nguyễn Gia Tường, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam Vinachem cho biết: Hiện nay, sản xuất trong nước đã đáp ứng được 100% nhu cầu về phân ure, phân lân chế biến, phân NPK, thậm chí nhiều DN còn có số lượng tồn kho lớn kéo dài từ năm này qua năm khác. Đối với riêng Vinachem, tập đoàn đã sản xuất được khoảng 5 triệu tấn phân bón/năm, đáp ứng cơ bản nhu cầu phân bón có chất lượng tốt cho sản xuất nông nghiệp trong nước. Trong đó, đáp ứng 100% nhu cầu phân lân chế biến với sản lượng xấp xỉ 2 triệu tấn/năm, đáp ứng 50% nhu cầu phân urê với sản lượng 1,15 triệu tấn/năm và đáp ứng 60% nhu cầu phân DAP với sản lượng 660 nghìn tấn/năm và trên 2 triệu tấn phân NPK. Theo ông Nguyễn Gia Tường, mặc dù kim ngạch NK phân bón đã giảm, song các DN trong nước vẫn chịu tác động rất lớn và khó cạnh tranh với phân bón NK, đặc biệt là phân bón NK từ Trung Quốc. Đó là do hiện tại, phân bón chủ yếu được NK từ Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Hình thức NK này rất khó kiểm soát về chất lượng về thuế nên dễ xảy ra tình trạng gian lận thương mại, trà trộn phân chất lượng thấp, gây ra cạnh tranh không bình đẳng với phân sản xuất trong nước. Tìm đường XK Ông Nguyễn Gia Tường cho biết, để tháo gỡ khó khăn cho ngành phân bón, Vinachem kiến nghị tạm dừng hoạt động NK phân bón biên mậu; tăng thuế suất thuế NK phân urê, DAP, NPK lên mức cao nhất theo các cam kết thương mại ký giữa Việt Nam và các nước; tăng cường các biện pháp quản lý thị trường phân bón trong nước, đặc biệt đối với phân bón NK. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo các lợi ích của nông dân khi thực hiện chính sách hạn chế NK phân bón, yêu cầu các đơn vị sản xuất phân urê, DAP, NPK phải đăng ký giá bán với cơ quan quản lý giá theo quy định để theo dõi, giám sát. Mong muốn tự tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ phân bón, vài năm gần đây, một số DN trong ngành cũng đã chủ động tìm đường XK. Điển hình như Công ty TNHH MTV Phân bón dầu khí Cà Mau PVCFC đặt kế hoạch năm 2014 sẽ XK khoảng 100.000 tấn phân bón sang Campuchia, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc... Tổng công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí PVFCCo cũng đã tiến hành xúc tiến thương mại nhiều năm qua và đến nay đã thành lập được các chi nhánh, văn phòng đại diện tại Campuchia, Myanmar. Với thị trường Myanmar, năm 2014, PVFCCo đặt mục tiêu sẽ XK với số lượng lớn bởi tổng lượng cầu đối với urê của Myanmar vào khoảng 1,5 triệu tấn/năm và sẽ còn tăng trong những năm tới. Nhiều chuyên gia khuyến cáo, XK phân bón là một hướng mở cho các DN sản xuất trong nước. Tuy nhiên, thị trường XK phân bón của Việt Nam cũng đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm phân bón của các nước trong khu vực và thế giới. Bởi vậy, mỗi DN sản xuất phân bón cần chủ động đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng, giảm giá thành để tăng sức cạnh tranh, có chiến lược xây dựng thương hiệu. Bên cạnh đó, các DN cũng phải tăng cường hợp tác, liên kết với nhau, tạo ra sự đoàn kết, đồng bộ, nhằm đảm bảo được lợi ích cộng đồng DN cả ở thị trường trong nước cũng như XK. Anh Trần Duy An, Chủ tịch HĐTV Cty TNHH Dinh dưỡng Nông nghiệp Quốc tế ATA gọi tắt là Cty ATA, là người đã nung nấu ý định SX phân NPK dạng viên nén từ nhiều năm trước. Ấy là khi thấy một số DN thử nghiệm SX phân hữu cơ dạng viên nén, anh An đã nghĩ ngay tới việc một ngày nào đó sẽ làm được điều tương tự với phân bón NPK. Năm 2009, khi thành lập Cty ATA, anh Trần Duy An đã bắt tay ngay vào việc SX phân bón NPK, nhưng vẫn theo kiểu truyền thống. Suốt 4 năm qua, để có được chỗ đứng trên thị trường, với phương châm Uy tín làm đầu”, Cty ATA đã luôn đặt vấn đề chất lượng lên trên hết. Trụ sở Cty ATA Điều này đã được khẳng định qua lời phát biểu đầy chân tình của PGS.TS Châu Cách trong buổi lể khánh thành trụ sở mới của Cty ATA: Tôi đã tư vấn về công thức SX phân NPK cho rất nhiều công ty phân bón ở Nam Bộ. Rất tiếc là nhiều Cty đã không làm theo công thức chuẩn. Họ nói với tôi rằng làm theo công thức mà bác tư vấn thì chắc chắn sẽ có phân bón đạt chất lượng tốt, nhưng làm thế thì chỉ có nước ăn cám. Nhưng phần lớn những Cty đã chọn con đường SX phân bón không đạt chất lượng như vậy, đến giờ đã bị phá sản hoặc làm ăn bê bết. Riêng Cty ATA, cũng nhờ tôi tư vấn về công thức, về chất lượng suốt mấy năm nay, lại luôn tuân thủ chặt chẽ công thức SX, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Nhờ đó, tôi chưa từng phải nghe một lời phàn nàn nào về chất lượng phân NPK của Cty ATA, cũng như chưa từng thấy Cty này bị cơ quan chức năng xử phạt lần nào về chất lượng sản phẩm. Đây là một điều đáng mừng trong bối cảnh SX phân bón kém chất lượng, phân rởm đang lan tràn như hiện nay”. Chính nhờ luôn chú trọng về mặt chất lượng, giá cả lại cạnh tranh, nên sản phẩm phân bón NPK của Cty ATA đang dần có được chỗ đứng và niềm tin từ người trồng lúa ở nhiều tỉnh ĐBSCL. Không thỏa mãn với điều ấy, Trần Duy An cùng các cộng sự kỹ thuật trong Cty vẫn ngày đêm nung nấu ý tưởng phải SX bằng được NPK dạng viên nén. Cơ may đến với An khi anh tiếp cận được công nghệ SX thức ăn gia súc dạng viên nén gia đình. Công nghệ này khá phổ biến ở Mỹ và Canada. Ở bên đó, họ SX hàng loạt những máy cỡ nhỏ để SX thức ăn gia súc quy mô trang trại. Các chủ trang trại mua những cái máy này về, sử dụng nó để ép các phụ phẩm nông nghiệp thành những viên nén làm thức ăn cho gia súc hoặc chất đốt mùa đông trong trang trại của mình. Nhận thấy từ công nghệ này có thể học hỏi, sáng tạo ra công nghệ SX NPK dạng viên nén, anh An đã quyết định nhập về một cái máy SX viên nén thức ăn gia súc. Những khi rảnh rỗi, anh An cùng các cộng sự lại mày mò, tìm hiểu kỹ càng từng chi tiết của chiếc máy để từ đó có thể chế ra một chiếc máy làm được phân bón NPK dạng viên nén. Đây không hề là một công việc dễ dàng, bởi nguyên liệu SX thức ăn gia súc và nguyên liệu SX phân bón NPK là rất khác nhau. Mặt khác, là một DN chuyên SX phân bón nên việc SX NPK viên nén phải đạt khối lượng lớn để có thể tung ra thị trường, đáp ứng rộng rãi nhu cầu của nông dân. Vì thế, yêu cầu đặt ra với Cty ATA là phải chế tạo được một hệ thống SX NPK với công suất lớn chứ không phải chỉ là một cái máy nhỏ như cái máy ép thức ăn gia súc mà DN đã mua về. Với yêu cầu như thế, phải mất tới 2 năm trời, An cùng các cộng sự ở Cty ATA mới thành công trong việc tạo ra một dây chuyền SX phân bón NPK dạng viên nén. Như vậy, ở Việt Nam, ATA đã trở thành Cty đầu tiên làm ra được sản phẩm này. Mà nếu tính cả khu vực Đông Nam Á, đến nay ATA cũng là Cty duy nhất đã làm được điều ấy. Đầu tháng 10 vừa rồi, trước sự chứng kiến của lãnh đạo Chi cục BVTV Bình Phước, lãnh đạo xã Tân Thành, các nhà khoa học, cùng đông đảo các đại lý, DN cung ứng nguyên liệu đầu vào…, Cty ATA đã vận hành hệ thống SX phân bón NPK dạng viên nén. Hệ thống đã hoạt động một cách trơn tru, hoàn hảo, cho ra những viên nén NPK trước ánh mắt đầy ngạc nhiên và thán phục của những người chứng kiến. Về sản phẩm NPK viên nén, anh Trần Duy An còn tiết lộ thêm một chi tiết rất thú vị, đó là sản phẩm này không tạo hạt bằng cách vo viên bằng hơi nước và sấy như các sản phẩm NPK khác. Thay vào đó, việc ép khô các hạt NPK được sử dụng công nghệ nén viên. Đây cũng chính là một sáng tạo độc đáo của Cty ATA. Vì sao lại không vo viên hơi nước và sấy mà ép khô? Anh Trần Duy An lý giải, nếu vo viên bằng hơi nước rồi sấy, sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, do NPK khi gặp nhiệt độ cao sẽ bốc hơi, mất chất và không thể thêm TE trung - vi lượng vì sẽ bị chảy thành nước do phản ứng hóa học khi có nước. Đó là lý do tại sao NPK SX trong nước có cộng TE nhưng thành phần rất nhỏ thường không quá 1% TE trong NPK SX trong nước thường dùng đơn vị ppm - tỷ lệ 1 phần triệu để đăng ký. Còn công nghệ ép khô không hề hấn gì tới chất lượng của hạt NPK. Sản phẩm NPK viên nén Mặt khác, nhờ công nghệ này 1 hạt NPK viên nén chứa từ 6 chất trở lên và có đầy đủ NPK +TE cần thiết cho cây trồng phát triển, đặc biệt bổ sung được hơn 10% TE trở lên trong NPK. Ưu điểm nữa của NPK dạng viên nén này là cực kì tan nhanh, chỉ cần se nhẹ trên tay là sản phẩm tan chảy thành nước, nông dân dễ nhận biết chất lượng thật giả và thích hợp cho bón đất ruộng lẫn cây trồng cạn hay những vùng đất khô cằn thiếu nước như miền Trung và Tây Nguyên, giúp cây trồng hấp thu được tốt hơn so với phân bón NPK thông thường. Về giá thành, do máy móc được tạo ra trong nước nên chi phí đầu tư thấp, giá bán sản phẩm rẻ hơn so với NPK ngoại nhập từ 10 -20%. Cty ATA ngoài nhu cầu SX cho chính mình còn nhận hợp đồng gia công cho các đối tác khác. Cụ thể, trong ngày khai trương hệ thống SX NPK dạng viên nén Cty đã ký hợp đồng gia công với Cty TNHH Nông Nghiệp CANADAVINA viết tắt là Cty CANADAVINA - một Cty chuyên nghiên cứu và phân phân phối những sản phẩm NPK chuyên dùng cao cấp của châu Âu. Do yêu cầu của Cty CANADAVINA rất cao về hàm lượng TE trong sản phẩm cụ thể: Sản phẩm Hai Lúa Xanh chuyên dùng cho lúa bón đợt 1 và đợt 2 phải bổ sung 14% TE; sản phẩm Hai Lúa Đỏ chuyên dùng cho lúa đợt 3 phải bổ sung 10% TE; sản phẩm Dưa Hấu Xanh chuyên dùng cho dưa hấu giai đoạn cây con bổ sung 13% TE; sản phẩm Dưa Hấu Ngọt chuyên dùng cho dưu hấu giai đoạn nuôi trái phải bổ sung 10%, nên Cty CANADAVINA đã chọn lựa và tin tưởng giao cho Cty ATA SX 4 sản phẩm trên. TE - Trace Element là từ viết tắt của các chất trung - vi lượng nói chung bao gồm hơn 10 chất S, MgO, CaO, Cu, Zn…, hop quy, phan bon npk là những chất quan trọng không thể thiếu đứng thứ hai sau các chất đa lượng NPK đối với cây trồng khi muốn phát triển, nếu thiếu TE cây trồng dễ bị sâu bệnh tấn công. Bón phân thiếu TE hay cung cấp TE không đầy đủ cũng là nguyên do chính dẫn đến sâu bệnh ngày càng tăng ở nước ta. Với việc đã ghi rõ trên bao bì hàm lượng TE như trên, ATA lại là Cty duy nhất ở VN cho đến nay đã dám khẳng định một cách rất cụ thể hàm lượng TE trong sản phẩm NPK của mình. Hàm lượng TE ở đây là hàm lượng hữu hiệu, tức là cây trồng có thể hấp thụ được hết. Trong khi đó, các sản phẩm NPK khác có ghi cộng TE trên bao bì, cũng chỉ mới ghi chung chung là +TE, mà chưa nói rõ hàm lượng cụ thể là bao nhiêu hay ghi rất thấp thường dưới 1%. Đây cũng là một nỗ lực, một bước tiến rất đáng ghi nhận của Cty ATA trong việc nâng cao và khẳng định chất lượng sản phẩm của mình. Bên cạnh việc đi sâu nghiên cứu, SX những sản phẩm mới, độc đáo và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thống, Cty ATA cũng đã đầu tư xây dựng trụ sở khang trang trên diện tích gần 2.000 m2 ở ấp 7, xã Tân Thành, thị xã Đồng Xoài, Bình Phước. Trụ sở có đầy đủ các phòng ban, phòng thí nghiệm, máy móc, thiết bị, khu tập thể cho cán bộ, nhân viên, công nhân. Điều này thể hiện quyết tâm của Cty ATA trong việc đầu tư sâu và lâu dài vào lĩnh vực phân bón, để có thể đáp ứng được cả những yêu cầu khắt khe hơn khi mà ngành phân bón sẽ trở thành một ngành SX có điều kiện trong thời gian sắp tới. Nguồn cung dồi dào Mới đây, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn NN&PTNT cho biết nhu cầu phân bón hóa học cho sản xuất nông nghiệp nước ta trong năm 2014 cần gần 11 triệu tấn các loại, tăng cao hơn so với mức 10,3 triệu tấn năm 2013. Trong đó, nhu cầu phân urê 2,2 triệu tấn, phân SA 900 nghìn tấn, phân kali 960 nghìn tấn, phân DAP 900 nghìn tấn, phân NPK 4 triệu tấn NPK và phân lân 1,8 triệu tấn. Sản phẩm phân bón mới NPK Phú Mỹ của PVFCCo đã đáp ứng nhu cầu thị trường trong thời gian qua Hiện nay, với khoảng 500 cơ sở sản xuất, năng lực sản xuất phân bón trong nước đã đáp ứng được trên 80% nhu cầu sử dụng phân vô cơ với tổng sản lượng sản xuất hàng năm đạt trên 8 triệu tấn các loại. Quan trọng hơn, năng lực sản xuất một số loại phân bón chính urê, NPK, Lân – những loại phân bón có ảnh hưởng lớn trên thị trường phân bón đã đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước. Còn theo Cục Quản lý giá Bộ Tài chính, giá phân bón trên thị trường thế giới trong thời gian tới tiếp tục có xu hướng tăng nhẹ. Trong nước, do nguồn cung phân bón tương đối dồi dào nên giá phân bón ở thị trường trong nước trong thời gian tới sẽ tiếp tục ổn định hoặc chỉ tăng nhẹ. Theo dự báo của Hiệp hội Phân bón Việt Nam FAV, trong năm 2014 tuy không có biến động gì lớn về giá cả, song các doanh nghiệp phân bón trong nước sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều vì hiện Mỹ đã xây dựng nhà máy urê mới tại Dakota và mở rộng nhà máy sản xuất urê Solagan với tổng công suất hai nhà máy lên 1,6 triệu tấn/năm. Các nhà máy phân bón urê hợp tác giữa Sonartach OCI và Sorfert Algeria có sản phẩm 1,3 triệu tấn/năm. Bên cạnh đó, nhiều nhà máy ở Bắc Phi và Trung Đông thay thế một loạt công nghệ mới và mở rộng năng suất thêm 2 triệu tấn. Do hiệu quả của công nghệ mới nên giá urê ở hai khu vực này dự kiến sẽ rẻ hơn từ 70 - 120 USD/tấn so với các loại urê sản xuất bằng công nghệ cũ. Trong khi đó, năng lực sản xuất phân urê trong nước đến thời điểm hiện tại là 2,34 triệu tấn/năm, bao gồm: Đạm Phú Mỹ 800.000 tấn, Đạm Cà Mau 800.000 tấn, Đạm Hà Bắc 180.000 tấn, Đạm Ninh Bình 560.000 tấn. Dự kiến cuối năm 2014, Đạm Hà Bắc nâng công suất từ 180.000 tấn lên 500.000 tấn/năm, cả nước sẽ có 2,660 triệu tấn/năm. Như vậy, cuối năm 2014, theo dự báo sản lượng urê sản xuất trong nước của ta sẽ dư thừa ít nhất 400.000 tấn nên việc hướng đến xuất khẩu phân đạm là điều tất yếu Khu vực xuất bán sản phẩm phân đạm hạt đục của Nhà máy Đạm Cà Mau Một điều đáng lưu ý là thế giới lại đang có xu thế tăng cường sử dụng phân bón NPK khoáng thiên nhiên và phân hữu cơ chất lượng cao thay thế dần dần phân hóa học đang phát triển mạnh như công nghệ hitech, công nghệ nano, công nghệ tháp cao, công nghệ emzyme, công nghệ sinh học, công nghệ phân tử nên giá thành sản phẩm các loại phân bón này rất rẻ, sẽ kéo theo các loại phân hóa học khác giảm giá thành đáng kể. Do đó, các sản phẩm phân bón hóa học độc hại, gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và môi trường tại Việt Nam về lâu dài nếu không cải tiến và đổi mới công nghệ sẽ bị mất thị phần, thậm chí có nguy cơ phải đóng cửa. Ngoài ra, các nhà máy sản xuất phân bón của Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề về phân bón nhập khẩu nhất là phân urê có nguồn gốc từ Trung Quốc có giá bán thấp hơn so với giá urê sản xuất trong nước tràn vào Việt Nam cùng với đó là tình trạng phân bón giả, kém chất lượng vẫn còn diễn biến phức tạp... Khiến thị trường phân bón cạnh tranh không lành mạnh, khó kiểm soát. Giá phân bón trong nước được cho là đang có xu hướng giảm do giá phân bón thế giới giảm, lượng phân bón nhập khẩu tăng do Trung Quốc giảm thuế xuất khẩu xuống còn 2%. Trong khi nhu cầu tiêu thụ phân bón đạt mức thấp do ảnh hưởng của thời tiết xấu tại nhiều địa phương Ông Nguyễn Hạc Thúy – Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho rằng: Năm 2014, dự báo lượng cung phân bón sẽ tiếp tục tăng mạnh cả trên thế giới và trong nước. Năm 2014, thế giới tăng thêm 4,7 triệu tấn urê. Riêng với phân urê, năm 2014 sản xuất trong nước đã đủ và dư thừa, còn hướng tới xuất khẩu. Với phân kali, năng lực sản xuất kali đang phát triển mạnh ở Canada, Nga, Belarus, Argentina, Trung Quốc, Jordan, Lào với sản lượng tăng thêm 14 triệu tấn/năm vào năm 2014. Về giá cả, do các loại phân bón vô cơ phát triển mạnh và thay đổi cơ cấu phát triển các chủng loại phân bón hữu cơ, NPK chất lượng cao, nhiều chế phẩm khác và do biến đổi khí hậu... Nên giá thành phân bón các loại hầu hết đều không tăng, giá giảm dần đến năm 2014- 2015. Lành mạnh hóa thị trường Trong buổi làm việc mới đây với Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam Vinachem, khi nói về bối cảnh thị trường phân bón hiện nay, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải cho rằng dù đã có bước thay đổi lớn từ việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nhập khẩu nay đã chủ động thị trường nhưng trong năm 2013 vừa qua, doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước vẫn chỉ đáp ứng được khoảng 60% trong 10,3 triệu tấn sản phẩm. Cạnh tranh trong lĩnh vực phân bón đang hết sức gay go” khi các doanh nghiệp phải đối mặt với các sản phẩm nhập lậu giá rẻ, hàng giả, hàng kém chất lượng tràn lan. PVFCCo tổ chức chương trình tặng phân bón cho nông dân nghèo vùng ĐBSCL Vì vậy, theo Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, một mặt các doanh nghiệp sản xuất phân bón cần hết sức linh hoạt, có biện pháp khẳng định thương hiệu, chất lượng, ứng phó với phân bón giả, lấy lại thị trường. Mặt khác, các ngành quản lý phải hết sức quyết liệt, triệt để trong kiểm soát thị trường, phòng chống các vi phạm, cạnh tranh không lành mạnh. Năm 2014, để thị trường phân bón trong nước ổn định và hạn chế tối đa tình trạng phân bón giả, kém chất lượng, Hiệp hội Phân bón Việt Nam đề nghị: Trước tiên, cần tái cơ cấu lại thị trường phân bón. Hiện nay, hệ thống cung ứng chồng chéo, nhiều cầu cấp, đội giá thành gây thiệt hại cho nông dân. Đặc biệt, cần kiện toàn, thắt chặt mạnh chất lượng phân bón và hệ thống sản xuất phân bón NPK để tránh làm giả, làm nhái. Thứ hai, các bộ, ngành, các tỉnh biên giới với Trung Quốc cần kiểm soát quyết liệt để ngăn chặn việc gian lận thương mại và nhập khẩu phân bón kém chất lượng vào Việt Nam. Thứ ba, cần tăng cường phổ biến, hướng dẫn cho các lực lượng chức năng nắm chắc Nghị định 202/2013/NĐ-CP về quản lý phân bón mới ban hành, am hiểu các văn bản pháp luật về vi phạm và xử lý phân bón giả, phân bón kém chất lượng. Được biết vào tháng 11/2013 vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 202/2013/NĐ-CP về quản lý phân bón nhằm nghiêm cấm sản xuất phân bón khi chưa được cấp Giấy phép sản xuất phân bón; sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu phân bón giả, phân bón đã bị cấm sử dụng; sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, trao đổi, tiếp thị phân bón không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc kinh doanh phân bón đã hết hạn sử dụng... Thống kê cho thấy cả nước hiện có đến 500 doanh nghiệp sản xuất phân bón và trên dưới 30.000 đại lý kinh doanh phân bón, trong đó có không ít cơ sở làm ăn chụp giật, kinh doanh hàng gian, hàng giả đã gây nhiễu loạn thị trường phân bón trong thời gian qua. Theo nhận định, khi Nghị định 202/2013/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/2/2014 sẽ giúp hạn chế bớt tình trạng sản xuất phân bón lộn xộn như hiện nay, tránh thiệt hại không đáng có cho doanh nghiệp làm ăn chân chính và người nông dân trong thời gian tới. Thế Vinh. Hỗ trợ sản xuất sạchTheo quy hoạch năm 2013, các tỉnh đồng bằng sông Hồng ĐBSH có 71.728ha diện tích sản xuất rau an toàn. Các tỉnh ở vùng ĐBSH có diện tích lớn về sản xuất rau an toàn là Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng. Tổng diện tích canh tác rau của Hà Nội 12.041ha, tương đương 29.000ha gieo trồng/năm, năng suất rau trung bình đạt 19 – 20 tấn/ha, sản lượng rau ước đạt 570 nghìn tấn/năm. Năm 2014 theo kế hoạch sẽ chỉ đạo, giám sát phát triển thêm 500ha rau an toàn, đưa diện tích sản xuất rau an toàn lên 5.000ha. Để sản xuất đạt được tiêu chuẩn rau an toàn phải đảm bảo quy trình rất nghiêm ngặt.Để sản xuất đạt được tiêu chuẩn rau an toàn phải đảm bảo quy trình rất nghiêm ngặt. Đất trồng, nước tưới, hàm lượng các chất độc hại dưới ngưỡng cho phép, thực hiện đúng quy trình kỹ thuật trong đó có việc tuân thủ chỉ sử dụng những loại phân bón được phép sử dụng cho rau và sử dụng đúng kỹ thuật là một việc cần thiết.HTX Văn Đức, huyện Gia Lâm Hà Nội là điển hình sản xuất rau an toàn, nguyên nhân thành công ngoài sự nỗ lực của xã còn có sự liên kết với Công ty Hương Cảnh trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Diện tích sản xuất rau chuyên canh 250ha, 1 năm quay vòng 2,5 lần với các loại rau chính là su hào, bắp cải, súp lơ, cải thảo và cải ngọt. Ông Trử Đức Nhị - Chủ nhiệm HTX cho biết: Phân bón cho rau chủ yếu là tro mua từ tỉnh Thái Bình, phân NPK Đầu Trâu. Phân NPK Văn Điển còn ít sử dụng nhưng thấy có hiệu quả: Bón cho bắp cải lá xanh sáng, lá dày, bắp cuốn chặt hơn, bón cho su hào củ chóng lớn, da bóng đẹp và đỡ bị nứt củ”.Các loại rau trồng cạn đất thích hợp là loại đất cát pha, thịt nhẹ và hầu hết đều ưa đất mang tính kiềm. Các vùng trồng rau chuyên canh qua nhiều năm do tập quán sử dụng thuốc sâu và phân hóa học làm tăng độ chai cứng, độ chua tăng lên và dư lượng chất độc hại tồn dư trong đất ngày càng tăng. Do vậy nên hạn chế bón phân đơn, tăng cường bón phân đa yếu tố NPK đặc biệt là phân NPK được sản xuất từ lân nung chảy là loại phân đa chất, ngoài chất lân còn chứa rất nhiếu các chất trung và vi lượng, cung cấp dinh dưỡng cho cây và cải tạo đất, một trong những sản phẩm có thương hiệu hàng đầu là phân đa yếu tố NPK của Công ty cổ phần Phân lân nung chảy Văn Điển.Hiệu quả kinh tế caoLoại phân đa yếu tố NPK Văn Điển nên dùng bón cho rau an toàn là phân NPK 10.10.5 N=10%; P2O5=10%; K2O=5%; S=3%; MgO=8%; CaO=16%; SiO2=15% và các chất vi lượng như B, Mn, Zn, Cu, Co… tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 65% và phân NPK 5.10.3 dạng viên N = 5%, P = 10%, K = 3%, MgO = 8%, SiO2 = 15%, CaO = 16%, S = 1% và các chất vi lượng Zn, Fe, B, Cu... Tổng hàm lượng dinh dưỡng trên 65% có tác dụng cung cấp đầy đủ, đồng thời các dinh dưỡng đa, trung và vi lượng còn có tác dụng để trung hòa và khử các chất độc hại nên phân Văn Điển còn có tác dụng bồi bổ, tăng độ màu mỡ, tơi xốp và cân bằng dinh dưỡng cho đất, điều chỉnh dần pH đất về ngưỡng thích hợp với sinh trưởng của cây trồng nói chung và cây rau nói riêng. Phân bón Văn Điển rất thích hợp với sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ.Bà Hoàng Thị Tuyết - Phó phòng Kinh tế, huyện Phúc Thọ cho rằng: Vùng sản xuất rau an toàn do không có phân chuồng nên chủ yếu sử dụng phân vi sinh và phân NPK trong đó có phân NPK Văn Điển. Nhất là những vùng trũng, đất chua sử dụng phân lân Văn Điển bón cho lúa cho rau đều tốt”. Ông Hoàng Văn Tùng- Chủ nhiệm HTX Thanh Đa, Phúc Thọ cho biết: Diện tích trồng rau chuyên canh của HTX: 50ha, 1 năm trồng 3 vụ gồm: Su hào, bắp cải, súp lơ, cải củ,… trong đó diện tích rau an toàn 30ha trong đó có 10.8ha rau Viet GAP. Phân đa yếu tố NPK Văn Điển sử dụng chưa nhiều nhưng quan sát trên ruộng rau thấy khác biệt là cây mọc chậm nhưng xanh bền, củ cải mập, củ nhẵn bóng và ăn ngon hơn. Các loại rau như bắp cải, súp lơ đều hạn chế bệnh thối nhũn”.Hải Dương cũng rất quan tâm tới sản xuất rau an toàn. Dự án quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn từ 2010 – 2915 diện tích: 5.000ha. Xây dựng mô hình sản xuất Viet GAP. Huyện Kinh Môn vụ xuân 2014 trồng 500ha rau chủ yếu là mủa, dưa chuột. Trong đó, HTX Lê Ninh, huyện Kinh Môn trồng rau chuyên canh với diện tích lớn, hiệu quả, riêng vụ đông trồng 370ha hành. Ông Nguyễn Văn Thành -Chủ nhiệm HTX cho biết: Phân bón cho rau sử dụng nhiều loại, mới có ít diện tích bón NPK Văn Điển nhưng thấy tốt, cụ thể là bón cho dưa chuột lá dày, xanh bền, quả dài, xanh đẹp, kéo dài thời gian thu hoạch và quả dễ bảo quản. Đất trồng dưa chuột, dưa lê là đất thịt, đất chua phải bón vôi nhiều, được biết phân NPK Văn Điển có tỷ lệ vôi cao gần 20%, lại có nhiều chất trung lượng và vi lượng như manhê, lưu huỳnh, silic, đồng, molepden,… nên vừa có tác dụng khử chua, làm cho cây khỏe nên rất phù hợp với đất và cây trồng ở đây”. Chu Công Tiện - nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội .. CôngThương - Loại phân bón được nhập nhiều SA và Kali. Cụ thể, phân SA được nhập nhiều nhất, với 654,8 nghìn tấn, trị giá 127,2 triệu đô la, tăng 17,44% về lượng nhưng giảm 7,38% về trị giá so cùng kỳ. Phân Kali nhập 544 nghìn tấn, trị giá 247,1 triệu đô la. Phân Ure cũng được nhập 289,5 nghìn tấn, trị giá 101,5 triệu đô la, tăng 9,65% về lượng nhưng giảm 12,17% về trị giá so với cùng kỳ. Đối với phân NPK, tuy chỉ nhập 318,8 nghìn tấn, trị giá 153,4 triệu đô la, nhưng lại là loại phân bón nhập khẩu tăng mạnh cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 105,88% và tăng 98,66%. Phân DAP - được nhập về nhiều đứng thứ 3 sau phân Kali với 488 nghìn tấn, trị giá 256,1 triệu đô la, tăng 49,67% về lượng và tăng 36,27% về trị giá so cùng kỳ. Lượng phân DAP được nhập về nhiều trong khi nhà máy DAP Đình Vũ lại đang tồn kho sản phẩm được lý giải là do giá DAP Trung Quốc đang xuống thấp hơn so với giá DAP sản xuất trong nước. Nguyễn Duyên PHẢN HỒI. Hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 kiểm tra phân bón nhập khẩu. Ảnh: T.H. Mặt hàng của Công ty là: Phân bón NPK bổ sung Hữu cơ Vigrow 16-3-3 với hàm lượng dinh dưỡng: N Đạm: 16%P2O2, Lân: 3%, K2O Kali: 3%, Hữu cơ: 6%, dạng hạt, đóng gói 50kg/bao”. Theo Tổng cục Hải quan, để áp thuế mặt hàng này cần căn cứ Thông tư 49/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn việc phân loại, áp dụng mức thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Thông tư số 156/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam; Thông tư số 164/2013/TT-BTC ban hành Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế. Theo đó, nếu mặt hàng nhập khẩu của Công ty là Phân bón có nguồn gốc hoàn toàn từ động vật hoặc thực vật thì được phân loại vào nhóm 31.01 Phân bón gốc thực vật hoặc động vật, đã hoặc chưa pha trộn với nhau hoặc qua xử lý hóa học; phân bón sản xuất bằng cách pha trộn hoặc xử lý hóa học các sản phẩm động vật hoặc thực vật " phân nhóm này có thuế NK là 0%. Nếu mặt hàng nhập khẩu của Công ty là Phân bón có thành phần là Phân khoáng, hợp quy, phân bón npk phân hóa học và phân hữu cơ hoặc là Phân khoáng hoặc phân hóa học chứa ba nguyên tố là nitơ, phospho và ka li thì được phân loại vào nhóm 31.05 bao gồm các mặt hàng là Phân khoáng hoặc phân hóa học chứa hai hoặc ba nguyên tố cấu thành phân bón là nitơ; phospho và ka li; phân bón khác; các mặt hàng của Chương này ở dạng viên hoặc các dạng tương tự hoặc đóng gói với trọng lượng cả bì không quá 10 kg. ” phân nhóm này có thuế NK từ 0 đến 6% Tuy nhiên, để phân loại chính xác mặt hàng NK nêu trên cần phải căn cứ vào hồ sơ, tài liệu, hàng hóa thực tế nhập khẩu và kết quả phân tích hàng hóa. Do công văn đề nghị hướng dẫn áp mã của Công ty chưa gửi kèm hồ sơ, tài liệu liên quan đến mặt hàng nhập khẩu nên Tổng cục Hải quan chưa đủ cơ sở để trả lời mã số cụ thể đối với mặt hàng có tên thương mại là Phân bón NPK bổ sung Hữu cơ Vigrow 16-3-3”. Công ty cần gửi bổ sung hồ sơ, tài liệu kỹ thuật nêu rõ nguồn gốc từng thành phần có trong sản phẩm, kết quả phân tích hàng hóa về Tổng cục Hải quan hoặc Chi cục Hải quan nơi Công ty dự kiến làm thủ tục nhập khẩu để được xác định mã số cụ thể. Danh sách các hộ được hỗ trợ phân NPK theo chương trình 135 của xã Thanh Hà. Phóng viên NTNN đã trực tiếp về tận đồng ruộng của bà con để tìm hiểu sự vụ. Tại đám ruộng nước của anh L.V.H đội 7, Công ty Cà phê 719, thuộc thôn 7A, xã Ea Kly đập vào mắt chúng tôi là thửa lúa vàng vọt. Dưới 10 phân nước, bên gốc lúa một lớp phân NPK” vẫn nằm trơ trơ. Anh Hùng cho biết: Tôi bón cách đây một tuần rồi đó. Chẳng hiểu nó là loại phân gì mà ngâm mãi vẫn không tan.” Dù ngâm nước đã một tuần nhưng loại NPK đặc biệt” vẫn trơ trơ như đá. Cũng theo anh Hùng, loại phân này bón xuống ruộng được một lát thì nổi lên mặt nước sau đó mới chìm xuống. Nhưng anh là người may mắn mới phát hiện được hiện tượng này. Thường vãi phân xong là tôi về. Nhưng hôm ấy có một số việc nên tôi còn nán một lát. Nếu bữa đó không nán lại thì tôi và hàng trăm người dân chẳng bao giờ biết có loại phân… kỳ lạ như thế.”- anh Hùng nói.Chưa tin anh Hùng, chúng tôi tiếp tục sang các ruộng bên cạnh. Tại ruộng anh P.V.T cùng thôn chúng tôi cũng ghi nhận hiện tượng tương tự. Anh T cũng cho hay, số phân trên đã bón được khoảng 1 tuần. Mở rộng ra một số ruộng đã bón loại NPK đặc biệt” trên tình trạng cũng chẳng khác gì, trên mặt ruộng một lớp phân” vẫn trơ như đá.Theo tìm hiểu của chúng tôi, loại phân bón trên được Công ty 719 cung cấp cho dân. Thông tin bao bì cho biết, đây là phân NPK của Philipines loại NPK đắt nhất trên thị trường hiện nay vừa sản xuất đầu năm nay và được Công ty cổ phần Vật tư KTNN Bình Định trụ sở 173 Trần Hưng Đạo, TP. Quy Nhơn nhập khẩu. Tuy nhiên theo quan sát đa phần các bao bì đều đã cũ, thậm chí một số bao bị mất chữ.Ngay sau khi phát hiện tình trạng trên, người dân đã lập tức thông báo cho Công ty 719. Người dân cho biết, 719 đã xuống tận ruộng kiểm tra và đã cho thu hồi toàn bộ số phân đã bán ra. Tuy nhiên đã gần một tuần qua, đơn vị này vẫn chưa có động thái gì.Người dân ở đây phản ảnh, họ có tiền và rất muốn mua phân bón bên ngoài để chăm sóc cây trồng. Nhưng vì có thông tin nếu họ mua phân ở bên ngoài thì sẽ bị công ty thu hồi lại ruộng vườn, nên họ đành phải cắn răng” nhận dù giá cả chẳng mềm chút nào ngoài thị trường, giá phân này khoảng 1,250 triệu/ tạ nhưng 719 bán với giá 1,3 triệu/tạ.Thông tin riêng của chúng tôi, loại NPK trên được 719 nhập về trên 200 tấn và đã bán ra được khoảng 50 tấn. Nếu đây là phân giả và không may mắn” phát hiện ra thì không biết sẽ có bao nhiêu dân nghèo mắc bẫy. Theo một trong 3 vị phó giám đốc của Công ty này tiết lộ, do đơn vị cung cấp phân là anh em” đều trực thuộc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam nên 719 không muốn làm lớn chuyện”!?.Duy Hậu .
II. chứng nhận hợp quy NPK Đoàn đã làm việc và yêu cầu đơn vị cam kết nếu có sản phẩm trên thị trường đoàn sẽ đề nghị thu hồi giấy phép hợp quy và khi sản xuất và có sản phẩm cung cấp ra thị trường phải thông báo cho Bộ GTVT
.Công trình tạo hạt phân bón hỗn hợp NPK bằng thiết bị thùng quay hơi nước lần đầu tiên được nghiên cứu áp dụng ở Việt Nam tại Công ty CP phân bón hóa chất Cần Thơ là một bước ngoặt trong công nghệ sản xuất phân bón NPK. CôngThương - Trước năm 1998, toàn bộ phân bón hỗn hợp NPK một hạt đều tạo trên thiết bị đĩa quay. Sản xuất theo công nghệ cũ này thường gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy. Đầu năm 1998, dây chuyền tạo hạt phân bón hỗn hợp NPK bằng thiết bị thùng quay hơi nước đã được công ty nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sử dụng vật tư hoàn toàn trong nước. Phương pháp này đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền Giải pháp hữu ích. Đặc điểm của dây chuyền là đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm trên nền tảng sử dụng được nhiều chủng loại nguyên liệu khác nhau. Sản phẩm sản xuất bằng công nghệ tạo hạt thùng quay dùng hơi nước có tính vượt trội hơn so với công nghệ tạo hạt bằng đĩa quay sử dụng nước. Công ty CP phân bón hóa chất Cần Thơ là đơn vị đầu tiên trong ngành phân bón đầu tư áp dụng. Thời điểm năm 1998, phát huy nội lực, công ty đã tự nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, lắp đặt dây chuyền sản xuất phân bón NPK tạo hạt thùng quay dùng hơi nước công suất 30 nghìn tấn/năm. Sau khi đưa vào vận hành sản xuất ổn định, công ty tiếp tục hoàn thiện dây chuyền thiết bị và đầu tư lắp đặt dây chuyền số 2 vào năm 2000. Năm 2006, công ty lắp đặt hệ thống lò đốt hơi và lò đốt sấy sử dụng bằng than song song với lò đốt dầu, nhằm linh động trong sản xuất, phù hợp với giá cả nhiên liệu trong từng thời điểm, mang lại hiệu quả kinh tế. Kết quả điều tra cho thấy, tính đến nay, thị trường có mức tăng trưởng bình quân là 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng 15- 20%/năm. Từ năm 2003 đến nay, toàn bộ 2 dây chuyền sản xuất đã phát huy hết công suất. Năm 2007, công ty tiếp tục nghiên cứu thiết kế, chế tạo và đầu tư dây chuyền số 3 trên cơ sở nhà xưởng sản xuất phân bón NPK hỗn hợp đĩa quay dùng nước. Hiện sản lượng phân bón hỗn hợp NPK hơi nước của công ty đạt 150 nghìn tấn/năm, với vốn đầu tư khoảng 2 triệu USD. So với việc chuyển giao công nghệ, thiết bị từ nước ngoài, tiết kiệm được hàng triệu USD. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK. Công nghệ này còn có hệ thống xử lý các chất thải rắn, đảm bảo tỷ lệ hao hụt thấp và tính thân thiện với môi trường. Nhờ những ưu điểm vượt trội đó mà sản phẩm NPK hạt sản xuất bằng thiết bị thùng quay hơi nước ngày càng chiếm lĩnh thị trường, từ đồng bằng sông Cửu Long đến Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ, kể cả xuất khẩu; góp phần chuyển thị hiếu của nông dân quen sử dụng phân NPK ba màu sang phân bón NPK hơi nước một màu, đảm bảo ổn định chất lượng sản phẩm. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK. CôngThương - Đây là đánh giá của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khi đến thăm nhà máy ngày 2/11/2013 vừa qua. Sau hơn 9 tháng nỗ lực trên công trường đầy nắng gió ở Khu công nghiệp Tằng Loỏng, huyện Bảo Thắng, Lào Cai, Công ty Apromaco đã chính thức đưa Nhà máy sản xuất NPK đi vào hoạt động, cho ra những loạt sản phẩm NPK đầu tiên mang thương hiệu Apromaco. Sản phẩm NPK ra đời khẳng định bước đi vững chắc của DN trong quá trình hoàn thiện Bộ sản phẩm phân bón Cho mùa vàng bội thu” của Apromaco gồm: " Kali CIS đỏ tự nhiên, SA Kim cương Nhật Bản, DAP xanh Ngọc Vân Thiên Hóa, Supe lân và NPK Lào Cai chất lượng cao". Hiện tại, dây chuyền sản xuất NPK tại Nhà máy Apromaco Lào Cai là một trong những dây chuyền công nghệ hiện đại nhất ở Việt Nam với chất lượng thiết bị vượt trội so với các nhà máy NPK khác. Dây chuyền có thể chạy vượt 120% công suất thiết kế, tỷ lệ thành phẩm công đoạn đầu lên đến 80-85%, sản xuất ra sản phẩm NPK mỗi hạt một mầu, trong đó chứa đựng tất cả các hàm lượng hữu hiệu của Nito, P2O5 và Kali là những yếu tố dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng. TS Phùng Hà – Cục trưởng Cục Hóa chất: Hai dự án sản xuất lân và NPK của Công ty Apromaco góp phần vào phần cung của nền sản xuất phân bón cả nước. Đặc biệt, dây chuyền sản xuất NPK được hoàn thành và đi vào hoạt động sẽ góp phần tích cực vào sự phát triển của nền nông nghiệp. Sản phẩm ra đời sẽ góp phần làm giá phân NPK trên thị trường giảm, hỗ trợ nông dân tăng hiệu quả sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng cho sản xuất nông nghiệp, bình ổn giá phân bón. Chất lượng sản phẩm đạt ổn định với NPK 5-10-3 màu ghi sáng bóng đặc trưng, dạng viên tròn, đồng đều, độ chắc cao, không mạt. Dây chuyền cũng sẽ đảm nhận việc sản xuất supe lân hạt để xuất khẩu theo đơn đặt hàng từ các khách hàng Nhật Bản, Đài Loan.. Theo Ông Nguyễn Tiến Dũng – Tổng giám đốc Apromaco, nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng và phục vụ tốt cho vụ Đông Xuân sắp tới, công ty đã chỉ đạo các Phòng, Ban của Apromaco và Nhà máy Supe lân và NPK Lào Cai tập trung toàn bộ nguồn nhân lực và vật tư, nguyên liệu, trang thiết bị để đảm bảo sản xuất 100% công suất supe lân và 100% công suất NPK trong thời gian từ nay đến Tết Nguyên Đán. Apromaco đã và đang nỗ lực tạo ra các sản phẩm phân bón có chất lượng cao phục vụ sản xuất nông nghiệp trong nước với nhiều lợi thế mà không đơn vị nào có thể có được. Nguyên liệu chính để sản xuất supe lân lấy từ khu mỏ apatit Phú Nhuận được Chính Phủ cấp phép cho Apromaco khai thác, các nguyên liệu khác: Urea, SA, Kali, acid Sulphuaric... Đều được Apromaco trực tiếp hợp quy, phân bón npk nhập khẩu từ nước ngoài, Với sự ra đời thành công sản phẩm NPK, Công ty Apromaco ngày càng chứng tỏ được chiến lược, hướng đi đúng đắn, dần từng bước phát triển vững chắc trở thành DN lớn mạnh, góp phần vào sự phát triển nền nông nghiệp nước nhà. Lâm Hiếu PHẢN HỒI. Khi cho vào nước, phân bón giả vón thành đất sét Trước đó, công ty này từng bán 48 bao 50 kg/bao phân bón NPK giả mang nhãn hiệu Đầu Trâu cho người trồng dưa hấu ở xã Xuân Quang 1, huyện Đồng Xuân Phú Yên, khiến gần 6 ha dưa hấu bị chết. Theo phản ánh của người dân, khi hòa trong nước loại phân giả này vón thành đất sét, và cũng không có cảm giác lạnh như phân kali thông thường. Hiện các cơ quan chức năng hai tỉnh Phú Yên, Bình Định đang phối hợp điều tra, xử lý vụ việc trên. PV. Cà phê, một trong những loại cây rất ưa phân NPK dạng hạt - ảnh Internet Ông Khản cũng cho biết: Mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất phân bón NPK một hạt được Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp tỉnh phối hợp với Công ty CP Bình Điền Lâm Đồng triển khai từ đầu quý I đến quý III/2012 thì hoàn thành và đưa vào vận hành. Mô hình có tổng vốn đầu tư 19,16 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn khuyến công quốc gia hỗ trợ 250 triệu đồng. Triển khai đề án, công ty đã đầu tư và lắp đặt mới dây chuyền sản xuất phân NPK một hạt với công suất 50.000 tấn/năm, bao gồm nhiều thiết bị như: Máy sấy, máy tạo hơi nước thùng quay, máy làm bóng sản phẩm, máy trộn nguyên liệu, hệ thống định lượng trái khế, máy phân loại, máy nghiền hạt to, bunke sản phẩm và hồi lưu...Cùng với đó, nhiều thiết bị nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường trong sản xuất và kiểm soát phát thải ra môi trường tự nhiên cũng được DN đồng bộ hóa như: Cyclone lắng bụi chùm sáu, quạt hút bụi máy sấy nóng, ống khói máy sấy lạnh, đường ống công nghệ cho dây chuyền... Thời điểm hiện tại, mô hình đã được chạy thử không tải và đưa vào vận hành, dự kiến sau khi hoạt động ổn định dây chuyền sản xuất phân NPK dạng một hạt sẽ cung cấp cho thị trường 50.000 tấn/năm, với mức giá 8.800 đồng/kg như hiện nay doanh thu của công ty sẽ đạt 440 tỷ đồng, tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng trên 43%/năm và trên 100 lao động địa phương sẽ được tạo việc làm. Thế nhưng, theo nhận định của ông Khản: Hiệu quả về kinh tế mà mô hình đã đem lại cho Công ty CP Bình Điền Lâm Đồng là những lợi ích hiện hữu và có thể định lượng được nhưng với những ưu điểm vượt trội về môi trường, về đặc điểm cũng như nhu cầu sản phẩm NPK dạng hạt mô hình sẽ là nền tảng căn bản cho DN hướng tới sự phát triển bền vững. Đây mới thực sự là điều đáng bàn bởi khác với nhiều loại phân bón dạng trộn, phân bón đa thành phần NPK dạng hạt có thể kết hợp các chất vi dinh dưỡng và các tác nhân gây ức chế nitrat. Các chất vi dinh dưỡng dạng bột được bọc phủ và phối trộn trong phân NPK dạng hạt làm giảm khả năng kết tụ-trong khi chính hiện tượng kết tụ này là nhược điểm cơ bản của phân NPK dạng trộn. Theo đó, sản phẩm NPK dạng hạt có nhiều ưu điểm như: tăng sinh trưởng, phát triển, chống chịu sâu bệnh, tăng năng suất, chất lượng nông sản và cải thiện độ phì của đất. Hiện nhu cầu sử dụng phân NPK dạng hạt thay cho phân dạng trộn theo tập quán cũ của người dân vùng Tây Nguyên đang có xu hướng gia tăng. Đáng lưu ý, với diện tích cây trồng tương đối lớn, đặc biệt là những loại cây công nghiệp như cà phê, điều….nhu cầu sử dụng phân NPK hàng năm của cả vùng Tây Nguyên là 400.000 tấn, riêng Lâm Đồng là 130.000 tấn. Như vậy, với công suất 50.000 tấn/năm dây chuyền sản xuất phân NPK dạng hạt của Công ty CP Bình Điền Lâm Đồng chỉ giải quyết được khoảng 1/3 nhu cầu của tỉnh do đó tiềm năng thị trường của phân NPK dạng hạt còn rất lớn. Đồng thời, với những thiết bị công nghệ cao, dây chuyền sản xuất mới đã giúp DN giảm thiểu tối đa tiếng ồn, giảm thiểu tối đa bụi phát tán vào không khí, hạn chế sự bay hơi gây mùi của nguyên liệu và kiểm soát tốt những phát thải ra môi trường…qua đó đảm bảo an toàn vệ sinh lao động trong sản xuất và khắc phục nhược điểm gây ô nhiễm môi trường-một hạn chế lớn mà công ty đã gặp phải nhiều năm qua. Có thể nói, hiệu quả mà mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất phân NPK đã mang lại cho Công ty CP Bình Điền Lâm Đồng không chỉ là những lợi ích về kinh tế mà với những ưu điểm vượt trội về môi trường, về sản phẩm kết hợp với nhu cầu ngày một tăng, mô hình đã tạo nên nền tảng cho DN hướng tới sự phát triển bền vững./. Việt Nga .
Tại một số tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, giá bán lẻ phân urê dao động 6.100-6.300 đồng/kg giảm 100-200 đồng/kg so với tháng trước; giá DAP cũng được điều chỉnh giảm 200 đồng/kg xuống còn 10.000-11.000 đ/kg; phân bón SA 3.070 đồng/kg; NPK 8.000-8.350 đ/kg. Giá giảm phần nào ảnh hưởng tới sản xuất phân bón trong nước. Tháng 8, sản lượng phân ure tuy tăng 0,7% so với tháng 7 nhưng chỉ bằng 96,3% so với tháng 8/2008; tính chung 8 tháng ước đạt 657,1 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ; sản lượng phân lân ước đạt 977,1 nghìn tấn, giảm 7,9% so với cùng kỳ; phân NPK ước đạt 1045,2 nghìn tấn, giảm 8,9% so với cùng kỳ. Theo thống kê sơ bộ, trong tháng 8 nhập khẩu hầu hết các chủng loại phân bón đều tăng so với tháng 7. Trong đó, Urea tăng khá mạnh trở lại đạt khoảng 83 ngàn tấn trị giá 23,14 triệu USD, tăng 15,8% về lượng cũng như trị giá so với tháng trước; DAP 69 ngàn tấn trị giá 24,89 triệu USD, tăng 3,81%; NPK 17,72 ngàn tấn trị giá 6,33 triệu USD tăng 74,94% về lượng và 58,88% về trị giá; trong khi đó, giảm 13% về lượng và 14% về trị giá , xuống còn 39,8 ngàn tấn trị giá 4,9 triệu USD. Về giá nhập khẩu, nhìn chung giá vẫn ổn định ở mức thấp, giá nhập khẩu trung bình Urea trong tháng 8 đạt từ 278-280 USD/tấn, NPK 357 USD/tấn giảm 9% so với tháng trước. Dự báo cung cầu phân bón nội địa sẽ không biến động mạnh do nguồn cung ổn định và cầu không tăng mạnh. Tuy nhiên, điều đáng ngại là nhập khẩu phân urê từ thị trường Trung Quốc vẫn tăng đáng kể do việc giảm thuế xuất khẩu phân bón theo đường tiểu ngạch xuống 0%. Mặt khác, lượng phân bón tồn kho khá lớn và giá trên thị trường thế giới có chiều hướng giảm nhẹ nên các doanh nghiệp cần tập trung tiêu thụ hết lượng hàng tồn kho để hạn chế rủi ro. Trong tháng, tổ chức thanh kiểm tra các sản phẩm phân bón cho thấy: tình trạng sản xuất kinh doanh phân bón có chất lượng thấp, quá hạn sử dụng... Thậm chí, lưu thông cả phân bón không nằm trong danh mục được phép lưu hành trên thị trường. Vì vậy, để ngăn chặn tình trạng phân bón giả gây nhiều thiệt hại cho cả nhà sản xuất và người nông dân, ngày 11 tháng 8 năm 2009, liên Bộ Bộ Nông nghiệp PTNT, Bộ Công an, Bộ Công Thương đã họp nhằm tìm các biện pháp xử lý vấn đề này. Sản phẩm tạo hạt bằng công nghệ hơi nước có ưu điểm là chất lượng hoàn toàn ổn định, không gây thất thoát nhiều đạm trong quá trình sấy, tăng độ cứng và cường lực của hạt NPK. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê về tình hình nhập khẩu tháng 2 và hai tháng đầu năm 2009, nhập khẩu phân bón tăng tới gần 80% về lượng và tăng trên 66% về trị giá so với tháng 1/2009. Cụ thể tháng 1, cả nước nhập 179 ngàn tấn phân bón các loại, trị giá 59 triệu USD, theo ước tính tháng 2 lượng nhập khẩu này là 350 ngàn tấn, trị giá 110 triệu USD. Trong đó, đáng chú ý là phân Urê hai tháng đầu năm lượng nhập khẩu tăng tới trên 200% tương đương 194 ngàn tấn và trị giá tăng gần 188% 56 triệu USD so với cùng kỳ 2008.Theo phân tích của ông Hoàng Mạnh Tiến, Trưởng ban Kế hoạch Kinh doanh Tổng công ty Hóa chất Việt Nam: Những số liệu nêu trên tuy có so sánh với cùng kỳ năm trước như cũng rất khó để đánh giá chính xác tình hình. Thực tế cuối năm 2007, các doanh nghiệp đều tăng lượng nhập khẩu, vì thế thời gian đầu năm 2008, mức nhập có giảm lại. Trong khi đó, hiện giá phân bón hop quy, phan bon npk thế giới lại đang ở mức thấp nên các doanh nghiệp tăng lượng nhập khẩu cũng là điểu dễ hiểu.Ông Tiến dẫn ra: Trên thế giới hiện ngoài giá phân DAP từ mức 317 USD/tấn tăng lên 367 USD/tấn tăng 50 USD/tấn. Phân bón Urê chỉ tăng thêm 7-8 USD/tấn, còn các loại phân bón khác, giá tương đối ổn định. So với mức giá đỉnh” vào quý II/2008, giá phân bón hiện nay vẫn đang đứng ở mức thấp. Trong khi đó, hiện năng lực sản xuất trong nước mới đáp ứng được 100% nhu cầu về supe lân và phân lân nung chảy tương đương với sản lượng khoảng 1,5 triệu tấn, phân Urê chỉ đáp ứng được 10% nhu. Trong tháng 3 tới đây, khi dây chuyền sản xuất DAP của Tổng công ty Hóa chất đi vào hoạt động cũng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu tiêu dùng nội địa. Chia sẻ với thông tin trên, anh Vũ Khánh Thiện, Phó ban Thương mại Thị trường Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu cho hay: Mỗi năm nước ta vẫn nhập khẩu khoảng 4 triệu tấn phân bón các loại, tính bình quân mỗi tháng cả nước sẽ phải nhập khoảng 400 ngàn tấn. Vì vậy, số liệu nhập khẩu nêu trên không có gì phải báo động”.Đại diện của hai công ty trên cũng nhất trí ở điểm: Năm nay, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, giá cả nhiều mặt hàng nông sản tiếp tục giảm sút. Vì vậy, người dân sẽ không có nhiều điều kiện để đầu tư vào phân bón cho các loại cây trồng như khi được giá. Ngoài ra, theo ước tính, lượng phân bón nhập khẩu tồn kho trong nước đang ở mức 1 triệu tấn. Các công ty sản xuất lượng tồn kho cũng tương đương 1 triệu tấn.Thêm vào đó, Những bài học kinh nghiệm của năm trước sẽ khiến cho nhiều doanh nghiệp không dám mạo hiểm đầu cơ găm hàng chờ tăng giá. Thời điểm tháng 7-8/2008 giá phân bón trên thế giới tăng lên mức 800USD/tấn nhiều doanh nghiệp đã không bán ra, nhưng chỉ đến tháng 11-12/2008 giá bán chỉ còn 250 USD nhiều doanh nghiệp vẫn buộc phải bán để thu hồi vốn”, anh Thiện nhìn nhận. Ông Tiến cũng cho biết thêm, hiện giá bán phân bón NPK 16-16-8 của Tổng công ty này so với cuối năm 2008 còn giảm khoảng 15%, trước giá bán ra là 8.000 đồng/kg, nay chỉ còn 7.000 đồng/kg. Đại diện Công ty Phân lân Nung chảy Văn Điển thì cho hay: Trước Tết giá bán phân lân của công ty là 2.700 đồng/kg, nay giá bán là 2.400 đồng/kg. Ngoài ra, để chia sẻ khó khăn với bà con nông dân, công ty còn đang có chương trình trợ giá từ 100.000 – 400.000 đồng cho cước vận chuyển mỗi tấn phân bón tùy theo địa bàn. Bà Lê Thị Thu, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Vĩnh Lộc cho hay, hội viên nông dân tham dự các lớp chuyển giao kỹ thuật sử dụng phân bón NPK Văn Điển, lớp nào cũng đông kín cả hội trường là vì họ thấy thực tế hiệu quả của NPK Văn Điển trên đồng ruộng qua các mô hình trình diễn tại xã Vĩnh Thịnh, Vĩnh Long và nhiều hộ nông dân trong huyện đã dùng, họ muốn được giải thích tại sao phân bón Văn Điển lại tốt thế? Thắc mắc này đã được chuyên gia của Cty Văn Điển giải thích thỏa đáng. Phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển cân đối dinh dưỡng đa lượng, trung lượng, vi lượng. Cách bón phân khoa học đáp ứng kịp thời nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng cho từng mùa vụ, trên từng chân đất đã mang lại hiệu quả thiết thực cho hội viên nông dân trong huyện.. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, 5 tháng đầu năm, NK phân bón giảm mạnh cả lượng và giá trị. Cụ thể, ước tính khối lượng NK phân bón các loại trong tháng 5 đạt 159 nghìn tấn với giá trị 43 triệu USD, đưa khối lượng NK phân bón 5 tháng đầu năm đạt gần 1,31 triệu tấn, kim ngạch NK đạt 405 triệu USD, giảm 14,9% về lượng và giảm 35,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, khối lượng NK phân urê ước đạt 27 nghìn tấn với giá trị 8,9 triệu USD, giảm 71,7% về lượng và giảm 75,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013; phân SA ước đạt 396 nghìn tấn với giá trị NK 55 triệu USD, giảm 1,8% về lượng nhưng giảm tới 32,9% về giá trị. Nguồn phân bón NK chủ yếu từ Trung Quốc, chiếm tới 45,3% tổng kim ngạch NK. Tuy rất vui vì Max one bán được số lượng nhiều, mang lại hiệu quả cho nhà nông nhưng các cán bộ thị trường của Mỹ Việt cũng phải rất vất vả vì nạn SX hàng nhái, vi phạm bản quyền. Ngày 6/5/2013, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ Bộ KH-CN ra phán quyết số NH 093-13 hop quy, phan bon npk YC/KLGĐ các nhãn hàng Max one Kim Lai của Cty TNHH Kim Lai, Biên Hòa - Đồng Nai, Max one con trâu vàng của Cty TNHH MTV Sài Gòn là xâm phạm bản quyền của Mỹ Việt. Giá phân bón tiếp tục giảm. LĐ - Phân urê các loại giá từ 330.000 - 340.000 đồng/bao, hiện còn từ trên 300.000 - 310.000 đồng/bao. Phân NPK giảm từ 40.0000 - 60.000 đồng/bao. Theo các đại lý kinh doanh phân bón, hiện đang là thời điểm sức mua yếu - do vụ hè thu đang thu hoạch, vụ đông xuân chưa xuống giống. L.N.G. Ngành phân bón và hóa chất hiện đang giảm sản lượng, so với cùng kỳ, sản lượng phân NPK tháng 11 ước đạt 21.300 tấn giảm 9,5%; phân DAP ước đạt 26.000 tấn, giảm 4,5%; phân urê ước đạt 208.100 tấn, giảm 19,1%. Tính chung 11 tháng so với cùng kỳ, phân NPK ước đạt trên 2,2 triệu tấn, giảm 3%; phân DAP ước đạt 210.000 tấn, giảm 19,2%; riêng sản lượng phân urê ước đạt gần 1,9 triệu tấn, tăng 19,8%. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, các loại phân bón nhập khẩu trong 9 tháng 2013 đã đạt tới 3,36 triệu tấn, tăng 20,5% so với cùng kì với trị giá tương đương 1,26 tỷ USD tăng 5,3% yoy. Trong đó, sản lượng urê nhập khẩu lên đến 546,3 nghìn tấn +25,1% yoy và đạt trị giá 184,4 triệu USD +2,7% yoy.
III. chứng nhận ISO 9001 Đoàn đã làm việc và yêu cầu đơn vị cam kết nếu có sản phẩm trên thị trường đoàn sẽ đề nghị thu hồi giấy phép hợp quy và khi sản xuất và có sản phẩm cung cấp ra thị trường phải thông báo cho Bộ GTVT
Nhiều hoạt động hưởng ứng chiến dịch Giờ Trái đất tại Quảng Ninh Phát hiện hóa thạch hơn 200 triệu năm tuổi của động vật ăn thịt khổng lồ Phát hiện dấu vết vụ va chạm lớn của thiên thạch với Trái đất Malawi quyết định tiêu hủy 4 tấn ngà voi Chính phủ Mỹ bị chỉ trích nếu cho phép Shell khai thác dầu ở Bắc Cực Chế tạo, hạ thủy chân đế giàn khoan siêu trường, siêu trọng. Theo số liệu của Vụ Thương mại biên giới và miền núi Bộ Công thương, trong những năm qua, mặt hàng phân bón được nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc qua các cửa khẩu phụ, lối mở trên tuyến biên giới Việt - Trung. Trong đó, cửa khẩu phụ Bản Vược Bát Xát - Lào Cai chiếm hơn 90% lượng phân bón nhập khẩu theo đường biên mậu, chủ yếu là phân DAP, urê và một số loại trong nước chưa sản xuất được như MAP, SA, Kali. Thống kê của Bộ Công thương cho thấy, lượng phân bón nhập khẩu biên mậu qua từng năm cũng tăng đáng kể. Nếu như 2010 chỉ có 80.000 tấn thì 2011 tăng lên 362.000 tấn, sang đến 2012 đạt 560.000 tấn và trong 4 tháng đầu năm 2013 đã nhập khoảng 200.000 tấn. Chia sẻ với chúng tôi, các DN SX urê, DAP trong nước cho biết, việc mặt hàng phân bón của Trung Quốc nhập qua đường tiểu ngạch, không phải chịu bất cứ loại thuế quan nào đang cạnh tranh không lành mạnh với DN nội địa. Bốc dỡ đạm urê cho khách hàng tại Nhà máy Đạm Ninh Bình Trước các đề xuất chính đáng của DN SX phân bón trong nước, Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước Võ Văn Quyền nhấn mạnh, sắp tới Bộ Công thương sẽ có những thay đổi mạnh mẽ các cơ chế, chính sách nhằm giảm dần lượng phân nhập khẩu. Đặc biệt, đối với những loại phân bón trong nước đã sản xuất được, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, Bộ Công thương sẽ hạn chế hoặc tạm dừng nhập biên mậu qua các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới theo từng thời điểm. Theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam, giá phân urê trên thị trường thế giới có thể đã gần chạm đáy sau một thời gian dài trượt dốc. Một số nhà kinh doanh từ Nam Mỹ quay lại thị trường và mua vào với suy nghĩ giá gần chạm đáy. Giá chào phân urê cao hơn được ghi nhận tại Trung Đông cho hàng hạt đục và hạt trong tại Ai Cập ở mức 352-360 USD/tấn. Thị trường Mỹ cũng rục rịch muốn dò đáy của phân đạm. Ấn Độ đang mua thêm hàng và có thể may mắn tìm được mức giá thấp hơn ít nữa. Tuy nhiên, điều này phần lớn tùy vào thỏa thuận giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Tại Việt Nam, các nhà nhập phân bón đang quan tâm khi urê Trung Quốc bao bì tiếng Anh chào ở mức trên 330 USD/tấn. Đối với hàng bao bì tiếng Trung Quốc, giá chốt thấp hơn một chút. Thị trường urê trong nước vẫn khá vững về nguồn cung khi đạm Phú Mỹ và đạm Cà Mau không thiếu hàng. Lượng hàng urê nhập trong tháng 5 tổng cộng khoảng 33.563 tấn, trong đó trên 28.000 tấn từ Trung Quốc. Được biết, đối với loại phân bón trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất được nhưng chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa, Bộ Công thương sẽ tiếp tục cho phép nhập theo từng lô hàng và có thời gian xác định để có thể kiếm soát số lượng phân bón qua đường biên mậu, không ảnh hưởng tới cung cầu trong nước. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, lượng phân bón SA nhập trong tháng 5 gần 100.000 tấn, trong đó từ Trung Quốc khoảng 66.000 tấn, Nhật 20.000 tấn. Lượng phân AN Ammonium Nitrat nhập trong tháng 5 khoảng 11.600 tấn, tất cả đều từ Trung Quốc. Về thị trường DAP và NPK, phân bón DAP thế giới từ ổn định đến yếu nhẹ. Giá phân DAP chào từ Mỹ giao động từ 465-475 USD/tấn. Giá phân DAP và phân NPK trong nước bình ổn. Một số nhà sản xuất NPK lớn trong nước phàn nàn tình hình kinh doanh không thuận lợi, có lẽ do nguồn cung gia tăng từ các nhà máy phân NPK nhỏ lẻ hiện hữu trong khi nhu cầu phân NPK lại thấp hơn mức bình thường. Sản xuất DAP tại Nhà máy DAP Đình Vũ Số liệu giao dịch trong tháng 5 cho thấy, lượng phân DAP nhập trong tháng 5 xấp xỉ 92.000 tấn, gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Nguồn cung ứng chính là từ Trung Quốc, khoảng 67.000 tấn, Nga 17.000 tấn. Tổng lượng nhập phân DAP trong 5 tháng đầu năm lên tới 340.088 tấn, cao hơn cùng kỳ năm 2012 khoảng 81%. Trong số các thị trường cung cấp mặt hàng phân bón cho Việt Nam, Trung Quốc vẫn là thị trường chính, chiếm 41,9% tổng lượng phân bón nhập khẩu, tương đương với 638.000 tấn. Cây lạc rất mẫn cảm với đất mặn nhưng lại chịu được một giới hạn rộng của độ pH đất. Tuy nhiên giới hạn thích hợp nhất của độ pH cho cây lạc là đất trung tính hoặc chua nhẹ. Trong trường hợp pH đất Ở nước ta cây lạc được trồng chủ yếu ở những chân đất xám bạc mầu trên phù sa cổ, đất phù sa có thành phần cơ giới nhẹ, số ít được trồng trên đất đỏ bazan... Loại đất này rất thích hợp về mặt lý tính cho cây lạc, nhưng lại nghèo dinh dưỡng. Chính vì vậy trong nghề đã được truyền bá câu phương ngôn: Không lân, không vôi, thì thôi trồng lạc”.Ở mỗi vùng, địa phương đều đã có quy trình sản xuất lạc, trong đó đã nói đến việc bón bao nhiêu phân chuồng, bao nhiêu vôi, bao nhiêu phân NPK, và bón vào lúc nào. Chúng tôi chỉ muốn phân tích thêm một số yếu tố dinh dưỡng mà nếu không quan tâm đúng mức sẽ gây ra những khác biệt, hoặc không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của cây lạc.Nguyên liệu cung cấp canxi cho cây lạc và nâng cao pH đất chủ yếu được nhắc đến là vôi. Nhưng nếu sử dụng vôi không đúng cách sẽ có một số khiếm khuyết sau:Nếu bón quá nhiều vôi sẽ gây hiện tượng thiếu sắt Fe và Bo B cho cây lạc, và đây cũng là vấn đề thường gặp phải trong sản xuất.Bón vôi và phân NPK nếu không quan tâm đến lưu huỳnh S trong thành phần phân bón khiến cây lạc giảm năng suất và chất lượng hạt.Cây lạc là cây trồng cần rất nhiều đạm để hình thành thân lá và sản phẩm quả, hạt. Người ta thấy rằng 1kg đạm N chỉ hình thành được 36kg thân, lá, củ lạc biomass, trong khi cũng 1kg N lại có thể hình thành được tới 120kg thân lá cây cao lương. Chính vì vậy các bộ phận thân, lá, củ của cây lạc có giá trị dinh dưỡng rất cao so với các cây hòa thảo khác. Tuy vậy, nhờ khả năng cố định đạm của nốt sần rễ cây nên phần lớn nhu cầu N của cây khoảng 80% đã được cây tự đáp ứng nếu việc hình thành nốt sần xảy ra bình thường. Trong nhiều trường hợp nốt sần rất khó hình thành, như trồng lạc trên đất mới, trên đất sau khi trồng lúa nước v.v. Trong trường hợp như vậy ta phải có giải pháp xử lý hạt bằng các chế phẩm vi sinh rhizobium và mycorrhizae, hoặc phải tăng lượng cung cấp phân đạm trực tiếp cho lạc nếu không có điều kiện xử lý.Một vấn đề khác, đặc tính cây lạc là hấp thu canxi chủ yếu bằng củ khi củ đang lớn, nên việc bón vôi cho cây phải bón vào vùng quanh gốc cây vùng tia lạc đâm xuống thì cây mới hấp thu dễ dàng, vì canxi trong đất rất khó di chuyển. Thiếu canxi củ lạc sẽ bị ốp tức củ rỗng và mất năng suất.Lưu huỳnh S giúp cây chống lại các bệnh nấm và tăng hàm lượng protein trong hạt. Trong thành phần phân bón phải tính đủ lượng S cho cây. Có thể dùng các loại phân có chứa S như super lân, phân đạm SA hay dùng canxi dưới dạng thạch cao để bón. Hợp quy, phân bón npk Lượng lưu huỳnh phải đạt khoảng 30-50kg S/ha.Một số trường hợp cây lạc có thể bị thiếu sắt gây bệnh bạc lá, nhưng ít gặp ở nước ta, nếu ta không bón quá nhiều vôi. Nếu gặp trường hợp này có thể khắc phục bằng cách phun sắt sulfat FeSO4.7H2O cho cây với nồng độ khoảng 0,2%, hoặc dùng loại chế phẩm phân bón lá giầu sắt để phun. Trong trường hợp thiếu sắt kiểu này có thể kèm theo việc thiếu Bo B, nên phun kèm với Bo để khắc phục sự cố này. Dùng borax pha khoảng 10g/bình 10 lít để phun. Đây là thông tin được đưa ra tại hội thảo về triển vọng thị trường ngành phân bón nhằm đưa ra những phân tích, dự báo giúp các doanh nghiệp và nông dân đưa ra các quyết định chính xác, kịp thời.Cũng theo, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn do phải nhập khẩu một lượng phân bón lớn nên thị trường phân bón trong nước phụ thuộc rất nhiều vào thị trường phân bón thế giới khiến giá phân bón tăng cao, gây khó khăn lớn cho nông dân Để bình ổn giá phân bón, các chuyên gia cho rằng ngành sản xuất phân bón trong nước cần phải được quan tâm phát triển để tăng sản lượng nhằm chủ động đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa, ưu tiên phát triển sản xuất phân lân nung chảy, phân NPK chất lượng cao… .. Toàn bộ số phân bón giả này do ông Trần Văn Sánh buôn bán đã bị lực lượng QLTT thu giữ đưa đi tiêu hủy; ngoài ra, ông Sánh còn phải thực hiện xử phạt vi phạm hành chính với mức 20 triệu đồng. Ngoài ra, tại cửa hàng Hồng Tình do bà Lê Thị Hồng - làng Đắm, xã Ái Thượng, huyện Bá Thước làm chủ, lực lượng QLTT cũng phát hiện 1 tấn phân bón NPK Thành Lợi kém chất lượng. 40 bao phân bón này không đủ hàm lượng các chất dinh dưỡng ghi trên bao bì. Đây là sản phẩm phân bón hỗn hợp 6-8-4 của Cty Thương mại tổng hợp Thành Lợi TP.Thanh Hóa có cơ sở sản xuất tại xã Đông Xuân, huyện Đông Sơn. Đại diện Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh đã chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của 2 doanh nghiệp và mong rằng sẽ còn tiếp tục nhận được nhiều hơn nữa sự giúp đỡ của các công ty, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trong cả nước để cùng chung tay giúp đỡ đồng bào Đan Lai vượt qua những khó khăn trước mắt, ổn định và phát triển bền vững. Lê Thạch. Nhiều người nghèo từ chối nhận phân bón hỗ trợ. Ảnh: Quốc Dũng. - Cây điều có tên Anacardium occidentale L, thuộc họ Điều: Anacardiaceae, bộ Rutales. Ngoài ra, điều còn được gọi bằng những tên khác như đào lộn hột, giả như thụ, cây quả thận và ma ca đơ. Điều là cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, vừa là cây giữ đất, chống xói mòn, phủ xanh đất trống. Diện tích trồng điều của cả nước niên vụ 2010 - 2011 là 391,5 nghìn ha giảm 7 nghìn ha so với năm 2009 và giảm 52,8 nghìn ha so với năm 2006. Diện tích cho thu hoạch năm 2010 là 340 nghìn ha, năng suất bình quân đạt 8,6 tạ/ha riêng các vườn điều cao sản đạt 10,5 - 40 tạ/ha. Sản lượng khoảng 291,5 nghìn tấn. Việt Nam trong 4 năm liên tục từ 2006 - 2009 đứng vị trí số 1 thế giới về xuất khẩu nhân điều. Thời vụ và khoảng cách trồng - Một số giống điều ghép được công nhận như giống PN1 vùng Đông Nam bộ , giống ES-04 vùng Tây Nguyên và giống ĐDH67-15 vùng duyên hải Nam Trung bộ. - Điều có thể trồng bằng hạt, cành chiết hay ghép trên cây con trong vườn ươm, thời vụ trồng điều tùy thuộc vào từng vùng sinh thái. Tuy nhiên, cần trồng điều sau khi mùa mừa bắt đầu khoảng một tháng, lúc này độ ẩm đất tương đối cao đã bảo đảm cho cây con có thể sống được. Mặt khác, trong suốt mùa mưa, cây điều đã sinh trưởng phát triển tốt để có thể tồn tại được trong mùa khô kéo dài. Với các tỉnh duyên hải miền Trung, mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 8 hay 9; với các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam bộ thì thời vụ trồng điều có thể từ tháng 6, khi mùa mưa bắt đầu được 1 tháng, cho đến cuối tháng 7 là tốt nhất. Cần ủ gốc giữ ấm cho đất trong mùa khô bằng rơm rạ, cỏ, rác… có phủ đất. Trong năm đầu tiên nếu có điều kiện nên tưới nước để bảo đảm tỷ lệ sống cao. Tại một số nơi điều được trồng với khoảng cách 3,5 x 3,5 m hay 3 x 4 m nhằm mục đích khai thác tối đa sức SX của đất và thu được năng suất cao trên một đơn vị diện tích ngay từ những năm đầu cho trái. Sau đó tỉa thưa thích hợp với từng giai đoạn phát trỉen của cây, sao cho khi cây định hình bảo đảm mật độ vườn điều ổn định ở mức 200 đến 210 cây/ha. Liều lượng và phương pháp bón phân NPK-S Lâm Thao cho điều - Sử dụng loại phân NPK-S 12.5.10.14. - Theo quy trình đã ban hành của Bộ NN-PTNT. - Dựa trên các kết quả nghiên cứu về liều lượng phân bón cho điều của các cơ quan nghiên cứu và đã xác định được liều lượng và thời điểm bón phân cho điều. - Tính cho từng cây và từng đợt bón cây/đợt. 3.1. Liều lượng và số đợt bón phân NPK-S Lâm Thao 12.5.10.14 ở giai đoạn kiến thiết cơ bản - Năm 1: Bón 4 - 5 đợt/năm, mỗi đợt bón 0,1 kg/cây/đợt nếu lấy mật độ 200 cây/ha thì lượng bón mỗi đợt là 15 - 20 kg/ha/đợt. Tính cho cả năm là 80 - 100 kg/ha/năm. - Năm 2: Bón 3 đợt/năm, mỗi đợt bón 0,7 - 0,75 kg/cây/đợt tương đương 140 - 150 kg/ha/đợt. Tính cho cả năm là 420 - 450 kg/ha/năm. - Trong thời kuf kiến thiết cơ bản, chia đều phân và bón làm 3 - 5 lần vào các tháng 6, 7, 8, 9, 10. Khi bón nên rạch rãnh theo vành tán cây, bón phân và lấp đất lại. 3.2. Liều lượng và số đợt bón phân NPK-S Lâm Thao 12.5.10.14 ở giai đoạn kinh doanh - Năm 3: hop quy, phan bon npk Bón 2 đợt/năm. Đợt thứ nhất bón 2,5 kg/cây tương đương 500 kg/ha; đợt thứ hai bón 1,5 - 2 kg/cây tương đương 300 - 400 kg/ha. Tính cho cả năm là 4 - 4,5 kg/cây/năm tương đương 800 - 900 kg/ha/năm. - Năm 4 - 7: Hằng năm lượng phân NPK-S 12.5.10.14 cần bón = Lượng phân NPK-S 12.5.10.14 năm thứ 3 + 20%-30% lượng phân NPK-S năm thứ 3 hoặc tùy năng suất mà có điều chỉnh. Nếu quy ra 1 ha thì lượng bón là 1.000 - 1.200 kg/ha/năm. - Từ đầu năm thứ 8 trở đi: Dựa trên lượng phân bón NPK-S 12.5.10.14 năm thứ 3 để điều chỉnh lượng phân bón phù hợp cho cây điều sinh trưởng và cho năng suất. - Đối với cây điều ở giai đoạn kinh doanh, bón 2 đợt: Đợt 1 vào tháng 5 hoặc 6; đợt 2 vào tháng 8 hoặc 9. Khi bón nên rạch rãnh quanh gốc theo mép tán cách gốc khoảng 1,5 m, bón phân vào và lấp đất. Cty CP Supe Phốt phát & hóa chất Lâm Thao sẽ cùng bà con nông dân trồng điều sử dụng phân bón hợp lý để thu được lợi nhuận cao từ phân bón Lâm Thao.
công bố hợp quy phân bón
Các sản phẩm phân bón được nông dân sử dụng trên địa bàn Hà Nội rất phong phú nhưng sản phẩm chủ lực đã thành truyền thống được tin dùng là phân bón của Công ty CP phân lân nung chảy Văn Điển và từ sử dụng phân đơn nay chủ yếu là bón phân đa yếu tố NPK. Ông Nguyễn Văn Hà - Trưởng phòng KN trồng trọt TT Khuyến nông Hà Nội cho biết, phân bón Văn Điển được dùng rộng rãi như vậy là qua nhiều mô hình trình diễn của khuyến nông và qua thực tế sản xuất các loại phân trên phù hợp với đất đai, trình độ canh tác nên phát huy được nhiều ưu thế nổi trội: Phân hòa tan dần trong môi trường axit yếu do rễ cây tiết ra nên lúa tốt bền, cây khỏe, hạn chế sâu bệnh, tăng khả năng chống chịu, tăng năng suất, giảm chi phí”. Ngoài phân lân đơn, công ty sản xuất ra nhiều loại phân đa yếu tố NPK mới phù hợp với từng loại đất, từng loại cây trồng và các giai đoạn sinh trưởng của cây lại có loại phân bón riêng. Sử dụng nhiều phân bón Văn Điển là các huyện vùng trũng như Thanh Oai, Ứng Hòa, Phú Xuyên, Mỹ Đức. Ông Lê Văn Tín, chủ nhiệm HTX Ngọc Động, huyện Ứng Hòa nhận xét: Lúc đầu cây cằn nhưng sau đó lá xanh sáng, bộ lá bền đến chín, quả sáng tỷ lệ hạt chắc cao. Đậu tương bón phân NPK Văn Điển cho lá dày, thân cứng, tăng khả năng chịu rét, quả sai, hạt chắc”. Phân bón Văn Điển còn sử dụng phổ biến cho các loại cây trồng khác ở trên các vùng hoa huyện Mê Linh, vùng rau Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Đan Phượng, Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai. Các nhà khoa học đã nghiên cứu loại cây nào, từng giai đoạn sinh trưởng cần những chất gì, tỷ lệ bao nhiêu để giúp công ty sản xuất ra loại phân bón phù hợp với yêu cầu. Phân bón Văn Điển có đầy đủ 16 chất dinh dưỡng cho cây trồng trong đó có các chất đa lượng, trung lượng và vi lượng. Bà Nguyễn Thị Liên, Trạm trưởng Trạm khuyến nông huyện Phúc Thọ Hà Nội cho biết: Tuy sản phẩm của công ty Văn Điển sử dụng không nhiều như các huyện phía nam nhưng những HTX vùng trũng như Võng Xuyên, Phụng Thượng… bón phân Văn Điển rất tốt cho các loại cây trồng hiện có tại địa phương. Cam, bưởi, nhãn được bón phân NPK Văn Điển có tỷ lệ đậu quả cao, vỏ quả nhẵn, bóng đẹp, tăng vị ngọt thơm. Bón cho khoai tây củ nhiều, củ to, tỷ lệ nước trong củ thấp, ăn ngon, dễ bảo quản. Vụ xuân năm 2013 một số HTX của huyện Phúc Thọ được hỗ trợ phân NPK Văn Điển để làm mô hình điểm như Võng Xuyên, Phụng Thượng... Ông Khuất Văn Khoa, chủ nhiệm HTX Phụng Thượng cho biết: Phân NPK Văn Điển bón cho lúa lá vàng non, cứng cây, hạt đẹp, năng suất tăng khoảng 10%. Nông dân thích dùng NPK nhưng công tác thông tin tuyên truyền vẫn còn hạn chế. Thời tiết vụ xuân rét nhiều, để tăng khả năng chống rét cho cây, phòng bệnh nghẹt rễ lúa và ngô chân chì bằng bón lót lân hoặc phân NPK Văn Điển rất tốt”. Với sự đóng góp hiệu quả, thiết thực trong việc thâm canh cây trồng, cải tạo đất nhiều năm qua của phân bón Văn Điển nên công ty CP phân lân nung chảy Văn Điển xứng đáng là người bạn đồng hành, tin cậy của bà con nông dân Hà Nội. Đặc biệt viên phân Vedagro có màu đen và kích thước giống hệt viên DAP của Mỹ nên khi mở bao phân ra vẫn có 3 viên 3 màu rất đẹp, vậy là nông dân sập bẫy. Người sử dụng đang rơi vào một ma trận” phân bón hữu cơ với đủ các loại tên gọi, thương hiệu, công thức… của các công ty sản xuất trong và ngoài nước với giá thành cũng rất khác nhau. Những công dụng, xuất xứ, công nghệ sản xuất, nguyên liệu của các loại phân bón hữu cơ chế biến cũng đang được các nhà sản xuất, nhà phân phối tiếp thị cũng rất phong phú. Vì vậy bà con cần tỉnh táo, lựa chọn những sản phẩm uy tín, chất lượng, công dụng đúng với thành phần để đảm bảo hiệu quả trong sản xuất.Thành phần chung nhất của các loại phân bón hữu cơ là hàm lượng chất hữu cơ. Ngoài ra, tùy thuộc vào từng loại phân bón hữu cơ khác nhau mà nhà sản xuất còn bổ sung thêm đạm, lân, kali, các chất trung vi lượng và vi sinh vật. Bón phân hữu cơ cho cây trồng là cung cấp chất hữu cơ cho đất. Đất được bổ sung chất hữu cơ có kết cấu tơi xốp thuận lợi cho bộ rễ phát triển và hút được nhiều phân bón NPK, qua đó làm tăng hiệu suất sử dụng phân bón cho cây, giảm được phân bón vô cơ. Đất được bổ sung chất hữu cơ sẽ có khả năng giữ nước, giữ phân bón tốt hơn, giảm sự thất thoát phân bón do bay hơi hoặc rửa trôi, từ đó cũng góp phần làm giảm lượng phân bón NPK. Chất hữu cơ trong đất sẽ được chuyển hóa thành mùn và yếu tố này có ảnh hưởng lớn tới độ phì nhiêu của đất, sức khỏe của đất, tính chất sinh-lý-hóa của đất. Vì vậy cũng có thể nói, bón phân hữu cơ góp phần bảo vệ đất và tăng sức sản xuất của đất.Lựa chọn phân bón hữu cơ như thế nào cho tốt? Hiện nay có một số loại phân bón hữu cơ cao cấp, ngoài tác dụng chính là cung cấp chất hữu cơ cho đất, nó còn có một số công dụng nổi trội khác mà các loại phân bón hữu cơ khác không có. Một sản phẩm phân bón hữu cơ có tính đột phá về công nghệ và công dụng là phân bón hữu cơ vi sinh NaSa Smart của NM Phân bón Năm Sao. NaSa Smart được sản xuất bằng công nghệ và các chủng vi sinh vật ngoại nhập từ Nhật Bản và Đài Loan. NaSa Smart có tác dụng cải tạo đất nhờ có chứa hàm lượng chất hữu đậm đặc. NaSa Smart cung cấp cho cây trồng các chất dinh dưỡng đa lượng và trung vi lượng thiết yếu. Các chủng vi sinh vật đối kháng trong NaSa Smart sẽ ngăn ngừa được một số tác nhân gây bệnh cho cây trồng. Vi sinh vật phân giải chất hữu cơ sẽ hạn chế hiện tượng ngộ độc chất hữu cơ cho cây. Các chủng vi sinh vật chức năng cố định đạm, phân giải lân, phân giải kali sẽ giúp giảm được 10-15% lượng phân bón NPK cho nông dân, qua đó giảm chi phí phân bón và bảo vệ môi trường. Sản phẩm này đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới và đang là xu hướng mới trong ngành sản xuất phân bón hữu cơ tại Việt Nam.Đối với cây trồng ngắn ngày, lượng phân bón hữu cơ nên sử dụng để bón lót. Lượng bón khoảng từ 300-400 kg/ha/vụ phân hữu cơ chế biến.Đối với các loại cây trồng lâu năm cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, phân bón hữu cơ nên sử dụng bón tập trung vào đầu mùa mưa để nâng cao hiệu suất sử dụng và hiệu lực của phân bón vô cơ phần lớn phân bón vô cơ được bón tập trung vào mùa mưa. Lượng bón khoảng 400-1.000 kg/ha/năm. Vận chuyển đạm Phú Mỹ đưa đi tiêu thị. Ảnh: Hoàng Hải/TTXVN Để tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn tới tình trạng tồn kho, những giải pháp tháo gỡ khó khăn nhằm thúc đẩy thị trường tiêu thụ phân bón, phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Nguyễn Văn Thanh, Cục trưởng Cục Hóa Chất Bộ Công Thương. - Ông có thể cho biết tình hình sản xuất phân bón của toàn ngành hóa chất trong 7 tháng qua? Ông Nguyễn Văn Thanh: Có thể tóm tắt bởi những con số như sau, ước đến hết 7 tháng năm 2014, toàn ngành đạt sản lượng khoảng 950.000 tấn phân lân, 157 nghìn tấn phân DAP, 1,03 triệu tấn phân NPK và 1,2 triệu tấn phân urê. So với mục tiêu và kế hoạch năm đã đề ra, sản xuất phân lân đạt 61%, phân DAP đạt 51%, phân NPK đạt 52% và phân urê đạt khoảng 50%. Trong thời gian qua, ngành sản xuất phân bón đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều dự án trọng điểm của ngành đã hoàn thành và đi vào hoạt động, góp phần chủ động nguồn cung, đáp ứng đủ cho nhu cầu của sản xuất nông nghiệp và từng bước hướng tới xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp đã và đang tạo dựng được những thương hiệu uy tín trên thị trường trong nước và trong khu vực như Nhà máy Đạm Phú Mỹ công suất 800.000 tấn/năm, Nhà máy sản xuất phân urê Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm, Nhà máy phân urê Ninh Bình công suất 560 nghìn tấn/năm, Nhà máy Đạm Hà Bắc, Nhà máy DAP Đình Vũ, Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao.... - Nếu đủ cung cấp cho thị trường trong nước, vậy tại sao vẫn phải nhập khẩu phân bón với lượng lớn như vậy, thưa ông? Ông Nguyễn Văn Thanh: Theo Tổng cục Hải quan, ước tính kim ngạch nhập khẩu phân bón từ đầu năm 2014 tới nay đạt trên 2,1 triệu tấn với tổng giá trị 675 triệu USD, giảm cả về lượng và giá trị khoảng 14,6% so với cùng kỳ năm 2013. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là phân SA và kali, vì nước ta không có điều kiện thuận lợi về nguồn nguyên liệu để đầu tư sản xuất 2 loại phân này. Hiện tại, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đang triển khai dự án Khai thác và chế biến muối mỏ kali tại Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào với công suất 320 nghìn tấn phân kali/năm, sau đó sẽ tiếp tục nghiên cứu để mở rộng, nâng công suất lên 700 nghìn tấn/năm. Dự án sau khi hoàn thành sẽ góp phần đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu phân kali trong sản xuất nông nghiệp. - Chỉ số tồn kho phân bón nói trên cho thấy một áp lực lớn đối với ngành từ nay tới cuối năm, vậy nguyên nhân tồn kho là do đâu thưa ông? Ông Nguyễn Văn Thanh: Con số tồn kho gần 500.000 tấn phân bón thực sự là nỗi lo lớn của ngành hóa chất. Có thể phân tích sơ bộ một số nguyên nhân như sau. Năm 2013, do Trung Quốc áp dụng chính sách giảm giá, giảm thuế xuất khẩu để đẩy mạnh tiêu thụ phân bón. Nên vì lợi ích thương mại, rất nhiều doanh nghiệp đã nhập khẩu phân bón với số lượng lớn. Lượng phân urê, Hop quy, phan bon npk DAP nhập khẩu tăng đột biến so với năm 2012. Điều này dẫn tới lượng phân bón tồn kho tăng cao, việc tiêu thụ sản phẩm này trong nước gặp nhiều khó khăn. Đơn cử như để duy trì hoạt động, năm 2013 Nhà máy DAP Đình Vũ đã phải thu hẹp sản xuất và sản lượng chỉ đạt trên 65% công suất thiết kế. Năm 2014, Việt Nam đã nhập khẩu từ Trung Quốc trên 905 nghìn tấn phân bón, trị giá khoảng 269 triệu USD, chiếm tỷ trọng gần 49% tổng lượng phân bón nhập khẩu. Một lý do khác là cũng trong năm nay, nhiều dự án cải tạo và mở rộng công suất của các nhà máy sản xuất phân bón đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Như phân đạm, tổng công suất thiết kế của các nhà máy sản xuất hiện đạt hơn 2,3 triệu tấn, sau khi dự án của Nhà máy Đạm Hà Bắc hoàn thành đã tăng tổng năng lực sản xuất trong nước lên 2,6 triệu tấn. Ngoài ra, tổng công suất phân supe lân hiện khoảng 1,25 triệu tấn/năm dự kiến cũng sẽ tăng 1,35 triệu tấn/năm vào năm 2015. Phân bón NPK cũng đang được hàng trăm cơ sở sản xuất với quy mô từ vài nghìn đến 600 nghìn tấn/năm. Tổng công suất phân lân hiện đạt 3,8 triệu tấn/năm. Còn một sức ép khác dẫn tới tồn kho nữa là tình trạng sản xuất, kinh doanh phân bón giả, phân bón kém chất lượng và việc thẩm lậu phân bón qua biên mậu, cửa khẩu phụ phía giáp biên giới Trung Quốc. Mặc dù, từ ngày 1/1 năm nay, nhà nước đã điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu từ 0 lên 3% để tăng cường kiểm soát phân bón nhập khẩu, song dường như chưa đủ sức nặng để hạn chế nhập siêu. - Để giải quyết nửa triệu tấn phân bón tồn kho, từ nay tới cuối năm ngànhhóa chất sẽ cần phải thực hiện những giải pháp gì? Ông Nguyễn Văn Thanh: Hiện nay, về cơ bản các Bộ, ngành đã đồng thuận với việc tăng thuế suất thuế nhập khẩu theo dự kiến của Bộ Tài chính, như phân bón urê, phân DAP tăng từ 3% lên 6% nhằm khuyến khích sản xuất trong nước, tăng tiêu thụ, giảm tồn kho, đồng thời góp phần hạn chế nhập siêu và tiết kiệm ngoại tệ. Ngoài ra, Bộ Công Thương đang nghiên cứu, đề xuất để áp dụng một số giải pháp hành chính và kỹ thuật nhằm quản lý chặt chẽ và hạn chế việc nhập khẩu phân bón qua biên mậu. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương sẽ sớm hoàn thiện khung pháp lý với việc xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn, quy định chi tiết thi hành Nghị định số 202/2013/NĐ-CP về phân bón vô cơ và các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng phân bón vô cơ. Dự kiến ban hành trong tháng 8/2014 nhằm tạo căn cứ pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về phân bón, góp phần hạn chế tình trạng phân bón giả, phân bón kém chất lượng lưu thông trên thị trường. Bộ Công Thương cũng rà soát các quy định về xử phạt vi phạm phạm hành chính trong lĩnh vực phân bón tại Nghị định số 163/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, đồng thời nghiên cứu điều chỉnh mức xử phạt để đảm bảo tính răn đe của quy định xử phạt. - Trân trọng cảm ơn ông! .. Phân bón Lam Sơn ngày càng chiếm được lòng tin người tiêu dùngCôngThương - Khẳng định chất lượng với giá phù hợp Công ty hiện đã sở hữu dây chuyền thiết bị hiện đại, triển khai hệ thống tự động hóa đồng bộ từ khâu kiểm soát nguyên liệu đầu vào đến khâu đóng gói bao bì sản phẩm. Với công suất dây chuyền sản xuất từ 18-20 tấn/giờ, sản phẩm của NPK Lam Sơn hiện có 3 chủng loại chính sử dụng cho từng loại cây trồng khác nhau. Đặc biệt tháng 12/2012, công ty đã đưa vào hoạt động sản xuất thành công loại phân hữu cơ dạng viên ép với nhiều ưu điểm vượt trội. Sản phẩm này vừa tiện dụng trong quá trình vận chuyển và không ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng. Đồng thời phân hữu cơ còn giúp cây trồng tăng sức đề kháng, cải tạo đất và có tác dụng giữ ẩm cho đất bởi hàm lượng mùn cao phù hợp với vùng đất nghèo dinh dưỡng, vùng ven biển, đất ngập mặn... Theo ông Hà Đức Chính - Giám đốc NPK Lam Sơn, nguồn gốc của phân hữu cơ Lam Sơn chủ yếu là tận dụng các phụ phẩm của quá trình sản xuất đường, cồn, bã mía của Công ty CP mía đường Lam Sơn và phân bò của các trang trại bò sữa. Chính nguồn nguyên liệu sẵn có này nên phân bón của công ty có giá thành phù hợp giúp bà con giảm chi phí sản xuất. Đồng thời, với việc chú trọng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm nên khi sử dụng phân bón Lam Sơn không có mùi khó chịu như trước đây. Đối với các nguyên liệu sau khi nhập về được ủ đống cho lên men vi sinh từ 2 -3 tháng, trong quá trình ủ chuyển hóa từ lân khó tiêu sang dễ tiêu, tăng tỷ lệ đạm rồi được sản xuất, đóng gói trên dây chuyền thiết bị hiện đại tự động hóa đến 90% và qua quá trình kiểm tra chất lượng rồi mới đưa ra thị trường… So với sản xuất các loại phân hóa học vô cơ, việc sấy phân hữu cơ này không dùng tài nguyên như than đá để đốt mà công ty đã ứng dụng thành công khi dùng các nguyên liệu như lõi ngô, mắt luồng, cây sắn, phụ phẩm sau sản xuất gỗ. Các nhiên liệu trên được đốt cháy triệt để nên gần như không sinh khói. Đây là đề tài được ban lãnh đạo NPK Lam Sơn trăn trở, quyết tâm áp dụng phương pháp sản xuất sạch gắn với bảo vệ môi trường. Trước đây có rất nhiều doanh nghiệp trong Hiệp hội Phân bón cùng tham gia sản xuất phân bón hữu cơ giống như NPK Lam Sơn nhưng hiện nay chỉ còn một vài doanh nghiệp tồn tại trên thương trường. Các chuyên gia này cho biết một phần do thiếu nguồn nguyên liệu, một phần gây ô nhiễm môi trường dẫn đến các quá trình sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp không đạt được hiệu quả. Với dây chuyền sản xuất hiện đại, quy trình khép kín cho ra sản phẩm đảm bảo chất lượng, NPK Lam Sơn là một trong số ít đơn vị đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp giấy phép đủ điều kiện sản xuất phân hữu cơ… Sử dụng phân NPK Lam Sơn năng suất cao hơn từ 10 - 15% so với sử dụng phân đơn Sản phẩm NPK Lam Sơn khi đưa vào sử dụng đạt năng suất cao và thân thiện với môi trường bởi trong quá trình sản xuất không có chất thải, sản xuất không cần nước, không có chất thải nóng… Năm 2013, công ty được trao các cup: Vì môi trường xanh quốc gia”; Sản phẩm uy tín 2013”, Nhãn hiệu nổi tiếng”; Sản phẩm chất lượng vàng”. Đa dạng hóa sản phẩm Với mục tiêu ban đầu là sản xuất phân bón phục vụ vùng nguyên liệu mía Lam Sơn, nhưng sau vài năm, Ban lãnh đạo NPK Lam Sơn đã quyết tâm đa dạng hóa các sản phẩm phù hợp với nhiều loại cây trồng. Hàng loạt các giải pháp đặt ra, trong đó chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Trước khi đưa một sản phẩm mới ra thị trường, công ty đã phối hợp với Trạm Khuyến nông tỉnh thực hiện nhiều mô hình sử dụng phân bón mới trên cây lúa, cói và các cây trồng khác. Kết quả, khi sử dụng phân NPK Lam Sơn cho năng suất cao hơn từ 10-15% so với sử dụng phân đơn và các loại phân bón khác, đó là chưa kể chi phí đầu tư thấp hơn nên hiệu quả kinh tế cao hơn. Đến nay các sản phẩm của công ty phù hợp cho nhiều loại cây trồng như: mía, lúa, cói, cam, cao su, cây tiêu và một số loại nông sản, rau an toàn, thị trường cung cấp không còn là phạm vi trong tỉnh mà đã rộng khắp miền Trung và một số tỉnh lân cận. Luôn là Người bạn thân thiết của nhà nông” Năm 2013, công ty cung cấp ra ngoài thị trường hơn 43.000 tấn sản phẩm. Kết quả đó thể hiện sự cố gắng vượt bậc của NPK Lam Sơn. Năm 2014, công ty quyết tâm hoàn thành tốt mục tiêu 50.000 tấn phân bón hữu cơ các loại, doanh thu 220 - 250 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 4,5 - 5 tỷ đồng, thu nhập người lao động 5 triệu đồng/tháng. Phấn đấu đến năm 2015, sản lượng đạt 100.000 tấn phân hữu cơ các loại, doanh thu đạt 500 tỷ đồng. Song song với đó sẽ đa dạng sản phẩm, mở rộng thị trường phía Nam để thương hiệu NPK Lam Sơn trở thành người bạn thân thiết của nhà nông. Hồng Lý Phân bón Lam Sơn ngày càng chiếm được lòng tin người tiêu dùng PHẢN HỒI. NPK 3 màu là loại phân bón hỗn hợp mà trong đó các hạt nguyên liệu phân đơn được phối trộn lại với nhau; mỗi hạt chỉ chứa 1 hoặc 2 nguyên tố đa lượng cần thiết cho cây trồng. Ví dụ urê hạt đục có màu trắng đục chỉ đại diện cho thành phần đạm Nitrogen N tổng số 46%, kali hạt có màu đỏ sẫm đại diện cho thành phần kali tổng số K 2 O 60%, hạt DAP có màu đen hoặc xanh, hoặc nâu... Đại diện cho thành phần đạm N 18% và lân P 2 O 5 46%... Ngoài ra còn 1 số hạt khác có hoặc không có thành phần đạm, lân, kali khác nhau nhà SX trong nước gọi là hạt bán thành phẩm. Tùy thuộc vào chỉ tiêu công bố hàm lượng N-P-K trên bao bì, nhà SX phối trộn các hạt trên theo các công thức hợp lý để tạo nên sản phẩm. Điều chú ý ở đây là tỷ trọng các hạt phân đơn trên có khác nhau tỷ trọng là tỷ số trọng lượng của 1 khối vật chất chia cho trọng lượng của 1 khối nước cùng thể tích. Ví dụ hạt Hop quy, phan bon npk đạm urê đục là 0,7 700 kg/m 3 , kali hạt là 1 1 tấn/m 3 , DAP hạt xanh 0,9 900 kg/m 3 … Các hạt có trọng lượng khác nhau tuy được phối trộn đều trước khi đóng bao thành phẩm phân bón NPK hỗn hợp 3 màu, nhưng trong quá trình nhập kho, vận chuyển từ nhà SX qua khâu phân phối các đại lý cấp 1, 2 đến người nông dân sẽ có sự phân lớp trọng lực nhất định bởi sự khác nhau trên. Hạt nhẹ, cỡ hạt to sẽ trồi trên miệng bao; hạt nặng, cỡ hạt nhỏ sẽ dồn xuống đáy bao. Vì vậy các thành phần đạm, lân, kali trong từng vị trí của bao phân có sự thay đổi so với hàm lượng công bố bên ngoài bao phân. Khi sử dụng nông dân cố gắng mua nguyên bao, trộn đều bằng tay trước khi dùng, hạn chế việc mua phân lẻ dễ rơi vào tình trạng sai lệch hàm lượng thường trên miệng bao phân bố nhiều hạt urê đục do nhẹ hơn các hạt khác. Nếu bón đòng cho lúa ta cần loại phân nhiều kali nhưng kali vốn nặng hơn nên thường dồn dưới đáy bao. NPK 1 hạt là loại phân phức hợp phân phức hợp chứa từ 2 hay nhiều nguyên tố dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng. Trong mỗi viên phân đều chứa đủ các thành phần đa lượng NPK theo bao bì công bố. Nhà SX có nhiều phương pháp để cấu thành dạng phân này. Khi đó các thành phần nguyên tố dinh dưỡng NPK được trộn đều, hóa lỏng hay hóa hợp để qua công nghệ SX khác tạo hạt lại thành những viên phân đồng nhất, tỷ lệ hàm lượng NPK của các viên phân đều bằng nhau, do vậy không xảy ra tình trạng phân lớp trong bao bì. Như vậy phân bón NPK phức hợp 1 hạt giải quyết được sự thay đổi tỷ lệ hàm lượng so với phân hỗn hợp 3 màu. Sử dụng phân bón NPK phức hợp 1 hạt giúp cho rễ cây hút đồng đều các yếu tố dinh dưỡng, không gây ra sự mất cân đối cục bộ hoặc thiếu hụt nhất thời Hiện nay, Công ty Cổ phần Phân bón & dịch vụ tổng hợp Bình Định Biffa - Địa chỉ: Quốc lộ 1A, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã đầu tư thiết bị công nghệ SX phân bón NPK 1 hạt bằng công nghệ tạo hạt hơi nước, công suất 50.000 tấn/năm. Bón phân cân đối là một giải pháp dinh dưỡng giúp cây trồng phát triển ổn định, sinh trưởng khỏe, không những giữ vững năng suất mà còn hạn chế được bệnh hại cây trồng, tiết kiệm chi phí SX và nâng cao hiệu quả cho người nông dân. DVT.vn - Phía Nhật sẽ cung cấp cho công ty 30.000- 40.000 tấn phân bón NPK đồng thời DPM sẽ cung cấp 200.000- 300.000 tấn ure/ năm. Ngày 29/3, Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí - PVFCCo Mã: DPM cùng với Tập đoàn Sojitz Nhật bản và công ty Phân bón Việt Nhật JVF – công ty thành viên của Tập đoàn Sojitz đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác cung ứng sản phẩm phân bón.Theo thỏa thuận, mỗi năm JVF sẽ cung cấp cho Tổng công ty 30.000 – 40.000 tấn phân bón NPK chất lượng cao. Ngược lại, PVFCCo sẽ cung cấp cho Sojitz 200.000 – 300.000 tấn urê/năm để xuất khẩu sang Thái Lan, Philippines và các nước khác sau khi đã ưu tiên tiêu thụ đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Sau khi bản ghi nhớ có hiệu lực thì hai bên sẽ tiến hành các hợp đồng thương mại. Bản ghi nhớ có hiệu lực trong 2 năm kể từ ngày kýJVF là công ty liên doanh giữa tập đoàn Sojitz Nhật Bản với một đối tác Viêt nam trong đó tập đoàn Sojitz nắm 75% cổ phần, với sản phẩm chính là phân NPK chất lượng cao. Bên cạnh hợp tác cung cấp sản phẩm, hai bên dự kiến ký hợp đồng dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, theo đó JVF hỗ trợ PVFCCo trong công tác vận hành, bảo trì nhà máy NPK do PVFCCo đầu tư xây dựng. Sau ký kết PVFCCo sẽ có điều kiện mở rộng danh mục sản phẩm của mình bên cạnh sản phẩm truyền thống là phân urê, đồng thời có cơ hội chuẩn bị thị trường cho sản phẩm của nhà máy NPK, dự kiến đi vào hoạt động từ năm 2014.Thùy Trang. HNM - Mấy hôm nay có đưa tin công an, quản lý thị trường phát hiện Xưởng sản xuất của Công ty CP Đầu tư Khoa học kỹ thuật và công nghệ Việt Pháp địa chỉ tại KTT Công trình đường thủy 1, thôn 3, xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì sản xuất "phân bón NPK" với thành phần chủ yếu là bột đá vôi. Tại thời điểm kiểm tra, dây chuyền sản xuất, đóng gói sản phẩm vẫn đang hoạt động. Số thành phẩm giả phân bón NPK thu giữ tại chỗ khoảng 60 tấn… - Chết, chết… Đến phân bón mà cũng làm giả thì "hết thuốc chữa" rồi. Nhưng cái công ty ấy mang tên là Đầu tư Khoa học kỹ thuật và công nghệ cơ mà? Không lẽ làm hàng giả mà lại là đơn vị đầu tư khoa học kỹ thuật và công nghệ? - Làm hàng gì bây giờ mà chẳng phải đầu tư. Có điều, đầu tư làm ra những sản phẩm hàng hóa có chất lượng, phục vụ tốt cho nhu cầu xã hội thì thành quả được hưởng mới xứng đáng, còn đầu tư làm hàng giả nhằm mang lại lợi ích nhóm cá nhân, làm hại cộng đồng, nhất là bà con nông dân "hai sương một nắng", làm mất mùa lúa và mùa rau màu thì thất đức lắm ông ạ! Cơ quan nhà nước có trách nhiệm chắc chắn không để yên đâu…". Tình cờ nghe được câu chuyện của hai cụ già ngồi nghỉ chân trong vườn hoa Khu đô thị Văn Quán - Yên Phúc Hà Đông chiều thứ bảy, 12- 5, NXD thấy hành vi của công ty kia "tệ" thật. Mong cơ quan pháp luật "trị" thật nghiêm để làm gương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét