Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Doanh nghiệp hợp quy Việt.

CHỨNG NHẬN HACCP Các đội QLTT còn phát hiện hàng loạt cửa hàng tự in tem hợp quy để qua mặt các cơ quan chức năng


I. công bố hợp quy phân bón Đoàn đã làm việc và yêu cầu đơn vị cam kết nếu có sản phẩm trên thị trường đoàn sẽ đề nghị thu hồi giấy phép hợp quy và khi sản xuất và có sản phẩm cung cấp ra thị trường phải thông báo cho Bộ GTVT


Tuy nhiên, do giá nông sản thời gian qua xuống thấp, nên tiêu thụ phân bón trong nước trầm lắng, tồn kho tăng, sản xuất phân lân và phân NPK tháng 7 tiếp tục giảm.Để bảo đảm đủ phân bón cho vụ hè thu và có sản phẩm gối đầu cho vụ mùa ở miền Bắc, các doanh nghiệp phân bón vẫn phải duy trì và đẩy mạnh sản xuất, nhất là sản xuất phân đạm u-rê; đồng thời tiếp tục tham gia cùng Chính phủ thực hiện tốt chính sách kích cầu đầu tư, tiêu dùng, duy trì mức tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh xúc tiến thương mại, hướng tới xuất khẩu phân bón sang các thị trường tiềm năng trong khu vực ASEAN và châu Á như Lào, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Hàn Quốc, Nhật Bản… Theo Mai LinhHà Nội mới. Đông đảo bà con nông dân tham gia hội thảo Bà con nông dân được các cán bộ kỹ thuật của PVFCCo đưa đi tham quan mô hình trình diễn hop quy, phan bon npk phân bón NPK 16-16-8+13S Phú Mỹ trên cây tiêu tại ấp 5 xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, trình bày cách thức triển khai thực hiện mô hình, đánh giá các tiêu chí về nông học giữa hai nghiệm thức trình diễn NPK 16-16-8+13S với nghiệm thức đối chứng. Cụ thể, ưu điểm nghiệm thức trình diễn, bản lá dày, đọt non ra đều – tập trung, hoa ra nhiều – đồng loạt, phát hoa vươn dài, trái đóng đông đặc hơn, trái to bóng hơn so với nghiệm thức đối chứng. Việc đầu tư phân bón NPK 16-16-8+13S Phú Mỹ trên cây hồ tiêu kết hợp với biện pháp canh tác theo nghiệm thức trình diễn giúp tăng năng suất trên 6% và giúp tăng lợi nhuận thêm trên 60 triệu đồng/ha so với cách canh tác theo phương pháp truyền thống của bà con nông dân giá tiêu tính theo thời điểm thu hoạch. Bà con nông dân tham qua mô hình trình diễn sử dụng phân bón NPK Phú Mỹ trên cây tiêu Từ kết quả mô hình trình diễn, PVFCCo phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư tỉnh Bình Phước đã đưa ra quy trình sử dụng hiệu quả sản phẩm NPK 16-16-8+13S Phú Mỹ kết hợp với phân urê Đạm Phú Mỹ, lân và Kali trên cây tiêu huyện Đồng Phú nói riêng và tỉnh Bình Phước nói chung. Đồng thời đại diện PVFCCo cũng giới thiệu tổng quan về Tổng công ty, Công ty, hệ thống phân phối và giới thiệu về các sản phẩm chính phân urê Đạm Phú Mỹ, NPK Phú Mỹ, giải đáp câu hỏi của bà con nông dân. Thông qua mô hình trình diễn phân bón NPK 16-16-8+13S Phú Mỹ trên cây hồ tiêu tại Bình Phước với những kiến thức, kinh nghiệm mà hội thảo mang lại sẽ giúp bà con nông dân trong việc chăm bón hiệu quả hơn cho vườn hồ tiêu của họ trong niên vụ tới. T.V ..


Năm 2008 nhập khẩu phân bón có nhiều biến động. Trái với xu hướng hàng năm là những tháng đầu năm lượng phân bón nhập về thường ở mức thấp và tăng mạnh trong những tháng cuối năm nhưng trong 5 tháng đầu năm 2008 lượng phân bón nhập về nước ta đã tăng rất mạnh, đạt 1,6 triệu tấn, tăng 50,8% so với cùng kỳ năm 2007. Trong khi đó, 7 tháng cuối năm, lượng phân bón nhập về đạt rất thấp, trên 100 ngàn tấn/tháng. Đặc biệt, tháng 11 lượng nhập về chỉ đạt 70,8 ngàn tấn, giảm tới 81,06% so với cùng kỳ năm 2007.Lượng phân bón nhập về giảm trong những tháng cuối năm do lượng tồn kho nhiều, nhu cầu tiêu thụ chậm lại. Dự báo, nhu cầu phân bón của cả nước trong năm 2009 cần khoảng 8 đến 8,5 triệu tấn. Trong đó, Urea cần khoảng 1,7 triệu tấn; NPK cần 2,5-3 triệu tấn; phân lân 1,7 triệu tấn; kali 800 ngàn tấn; DAP cần 750 ngàn tấn và phân bón SA cần 750 ngàn tấn. Trong đó, dự kiến sản xuất trong nước năm 2009 khoảng 950 ngàn tấn Urea, còn lại phải nhập khẩu 710 ngàn tấn; phân bón DAP dự kiến sản xuất được 200 đến 250 ngàn tấn từ dự án DAP Hải Phòng còn lại phải nhập khẩu khoảng 450 đến 500 ngàn tấn. Về phân chứa lân supe lân, lân nung chảy và phân hỗn hợp NPK, trong nước có khả năng sản xuất đáp ứng cơ bản nhu cầu dự kiến 1,6 triệu tấn NPK. Phân bón SA và Kali phải nhập khẩu hoàn toàn. Như vậy tổng lượng phân bón các loại cần phải nhập khẩu năm 2009 khoảng 3,5 triệu tấn. So với năm 2007, lượng phân bón nhậpv ề từ một số thị trường chính đều giảm như lượng phân bón nhập về từ thị trường Trung Quốc giảm 28,17%; Nhật Bản giảm 26,3%; Belarus giảm 37,37%; Đài Loan giảm 9,65% và Philippines giảm 42,80%. Ngược lại, lượng phân bón nhập về từ một số thị trường khác lại tăng như từ Nga tăng 28,46%, Hàn Quốc tăng 3,78% và Đài Loan tăng 23,52%. Đáng chú ý, lượng phân bón nhập về từ thị trường Indonesia tăng rất mạnh, từ 2,5 ngàn tấn năm 2007 lên 67 ngàn tấn trong năm 2008. Giá nhập khẩu trung bình phân bón năm 2008 đtj 469 USD/tấn, tưang 86,64% so với giá nhập khẩu trung bình năm 2007. Trong đó, giá nhập khẩu trung bình về thị trường Nga tăng tới 203,63% so với giá nhập khẩu trung bình năm 2007, đạt 450 USD/tấn; Hàn Quốc tăng 103%, đạt 519 USD/tấn; Canada tăng 116,82%, đạt 568 USD/tấn; Belarus tăng 135,92%, đạt 578 USD/tấn; Trung Quốc tăng 72,95% so với giá nhập khẩu năm 2007, đạt 474 USD/tấn....Về chủng loại nhập khẩu: Trong năm 2008, hầu hết các chủng loại phân bón nhập về đều giảm. Trong đó NPK là chủng loại nhập về giảm mạnh nhất, giảm 34,37% so với năm 2007, đạt 170,47 ngàn tấn, trị giá gần 99 triệu USD. Giá nhập khẩu trung bình đạt 581 USD/tấn, tăng 95,5% so với giá nhập khẩu năm 2007. Chủng loại phân bón này nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Nauy và Hàn Quốc. Lượng phân DAP nhập về cũng giảm 33,54%, nhưng lại tăng 43,85% về trị giá so với năm 2009, đạt 432,6 ngàn tấn. Trong đó, nhập về từ thị trường Trung Quốc đạt trên 305 ngàn tấn với giá nhập khẩu trung bình 800 USD/tấn; Hàn Quốc đạt 54 ngàn tấn, giá trung bình 838 USD/tấn; Tunisia đạt khoảng 15 ngàn tấn, giá trung bình 1386 USD/tấn...So với năm 2007, nhập khẩu phân Urea giảm 4,9% về lượng song lại tăng 42,63% về trị giá, đạt 704 ngàn tấn, trị giá 285,6 triệu USD. Trung Quốc là thị trường cung cấp urea cho Việt nam chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm 88,7% tổng lượng ure nhập khẩu của cả nước, đạt trên 600 ngàn tấn, giá nhập trung bình 399 USD/tấn. Lượng Urea nhập khẩu từ Qata đạt 4 ngàn tấn với giá trung bình 533 USD/tấn. Đặc biệt, giá nhập khẩu trung bình phân Urea từ thị trường Hàn quốc, Nga và Ấn Độ thấp hơn giá nhập từ các thị trường khác từ 70 đến 200 USD/tấn.Chủng loại phân bón nhập khẩu năm 2008:Tên hàng Năm 2008 2008 so với 2007 Lượng tấn Trị giá USD % Lượng % Trị giá Phân bón các loại 3.004.2511.458.178-20,7745,81Phân Urê705.196285.838-4,7242,97Phân NPK162.53195.711-37,4324,08Phân DAP409.575369.351-37,0940,54Phân SA727.699184.924-26,0334,77Phân bón loại khác 999.250522.354-13,6661,97. 1. Đặc điểm Hop quy, phan bon npk sinh thái và nhu cầu dinh dưỡng của cây hồ tiêu: Cây hồ tiêu thích nghi trồng trên đất tôi xốp, dễ thoát nước, nhiều mùn và có độ pH gần trung tính. Trong điều kiện đất chua pH thấp, cây hồ tiêu dễ bị các loại bệnh về rễ và thường cho năng suất thấp. Cây hồ tiêu phát triển được trên đất có pH từ 4,5 - 7, tối ưu là 5,5 - 6,5.Nhu cầu dinh dưỡng của cây hồ tiêu: Với mật độ khoảng 1.750 trụ/ha, mỗi năm cây tiêu hút từ đất một lượng dinh dưỡng là 250kg đạm N, 35kg P2O5, 205kg K2O, 45kg CaO và 20kg MgO. Như vậy nhu cầu về đạm, kali của hồ tiêu cao hơn so với lân, ngoài các chất dinh dưỡng đa lượng N, P, K, cây hồ tiêu rất cần hút các nguyên tố trung và vi lượng trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển, do các chất này có vai trò rất lớn trong việc tạo năng suất, chống chịu sâu bệnh hại và tăng phẩm chất, hương vị của tiêu. Việc bổ sung phân hữu cơ nhằm tăng hàm lượng mùn trong đất, giúp đất tơi xốp, thông thoáng để có bộ rễ khỏe mạnh là rất quan trọng đối với cây hồ tiêu.+ Canxi CaO: Rất cần cho cây tiêu sử dụng, vừa là nguyên tố dinh dưỡng trung lượng, vừa là nguyên tố phòng, chống bệnh, cải thiện độ chua của đất tăng khả năng kháng bệnh ở rễ tiêu.+ Magiê MgO: Có tác dụng khử chua và cải tại đất như canxi, hơn nữa nó là chất thiết yếu tạo nên diệp lục tố của cây, giúp cây trồng tổng hợp protein, sinh trưởng mạnh mẽ, xanh tốt, trái to, chắc hạt, chống chọi tốt với mùa khô hạn, tăng khả năng đề kháng cho cây, chống được bệnh nám mặt lá ở cây.+ Silíc SiO2: Giúp cho cây tăng khả năng ôxy hóa, làm cứng thành vách tế bào do Silic nằm trong thành phần cellulose của thành tế bào, chống lại sâu bệnh hại, đặc biệt là rệp và bệnh thối đầu lá, tăng khả năng quang hợp.+ Lưu huỳnh S: Thiếu lưu huỳnh sẽ gây ra bệnh bạc lá và làm giảm năng suất, chất lượng tiêu rất rõ. Do đất Tây Nguyên quá thiếu nên phải chú ý để cung cấp bổ sung cho cây.+ Bo: Là nguyên tố vi lượng rất quan trọng. Thiếu bo là nguyên nhân dẫn đến hoa kém phát triển, sức sống của hạt phấn kém, tỷ lệ đậu quả thấp, tầng rời ở cuống và quả không phát triển đầy đủ nên quả non dễ bị rụng. + Kẽm Zn, Mangan Mn: Tham gia vào quá trình quang hợp, trao đổi chất… thiếu chúng các chức năng tế bào của cây bị suy yếu, rất dễ bị nhiễm bệnh, sâu phá hại.2. Phân bón NPK Văn Điển thích hợp cho cây hồ tiêu:+ Loại phân bón sử dụng: Phân NPK 12.8.12: N=12%; P2O5=8%; K2O=12%; S=3%; MgO=8%; CaO=15%; SiO2=13 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co… tổng dinh dưỡng trên 71%. Phân NPK 16.6.16: N=16%; P2O5=6%; K2O=16%; S=2%; MgO=5%; CaO=8%; SiO2=7 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co… tổng dinh dưỡng trên 60%.+ Liều lượng và cách bón ĐVT kg/ha: Trồng mới: 400-500kg NPK 12.8.12 phân NPK Văn Điển loại 12.8.12 trộn đều đất trong hố trước khi đặt bầu.Năm thứ 2: 1.000 - 1.200kg NPK 12.8.12. Phân NPK Văn Điển được chia bón 3-4 lần vào các thời điểm. Khi cây tiêu ra hoa, khi cây đã đậu quả và bón sau thu hoạch. Năm thứ 3: 1.600-1.800kg NPK 12.8.12. Thời kỳ kinh doanh: 2.200 - 2.500kg NPK 16.6.16Chú ý: Khi đất đủ ẩm, rải đều phân NPK Văn Điển xung quanh tán cây tiêu, xăm xới nhẹ lấp đất kín phân, tránh làm đứt rễ tiêu.Bón phân đa yếu tố ĐYT NPK của Công ty cổ phần Phân lân nung chảy Văn Điển, cây hồ tiêu không những được cung cấp cân đối, đồng thời các chất dinh dưỡng đa lượng đạm, lân, kali mà còn được cung cấp bổ sung thêm các chất trung lượng như canxi, magiê, silíc và các chất vi lượng bo, đồng, côban, molipđen... Rất cần thiết cho cây mà các loại phân bón khác không có. Đặc biệt, phân Văn Điển có pH từ 8- 8,5 nên khi bón sẽ cải tạo nâng cao pH đất, là nguồn dự trữ dinh dưỡng cung cấp từ từ đầy đủ cho cây. Hồ tiêu được bón phân ĐYT NPK Văn Điển sẽ tránh được các bệnh đốm lá, héo rụng lá, bệnh thối rễ, cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, hương vị thơm ngon hơn bón phân thông thường. Nông dân rất phân vân khi chọn mua phân bón NPK Chỉ trong một tuần ra quân kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật trong hoạt động SXKD phân bón, đoàn kiểm tra liên ngành tỉnh Trà Vinh đã lấy 37 mẫu phân hữu cơ và vô cơ gửi đi kiểm nghiệm. Kết quả, có 5 mẫu phân hữu cơ, 3 mẫu phân vô cơ không đạt chất lượng so với tiêu chuẩn công bố. Sản phẩm phân vô cơ của các Cty sản xuất không đảm bảo chất lượng gồm: Phân bón NPK cao cấp JAPAN 23 - 23 - 0 - 10 SiO2 + TE do Cty CP phân bón Phúc Hưng số 19 Liên khu 2 – 5, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, TP.HCM sản xuất. Phân bón NPK cao cấp 20 - 20 - 15 + TE do Cty TNHH MTV Phạm Hoàng số 34 quốc lộ 30 xã An Bình, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp sản xuất. Phân bón NPK cao cấp 20 - 20 - 15 + TE của Cty TNHH SXTMDV XNK Việt Quang số 297A khu phố 3, phường Tân Phú, TP Bến Tre. Đối với phân hữu cơ, trong đợt ra quân cuối tháng 8/2014, Đoàn thanh tra Sở NN-PTNT đã phát hiện 5 mẫu không đạt chất lượng so với thành phần công bố trên bao bì. Trong số 5 mẫu kiểm tra không đạt thì có 3 mẫu của 3 Cty yêu cầu kiểm tra lại và chưa có kết quả. Ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Công thương Trà Vinh cho biết: Sở Công thương quản lý phân bón vô cơ. Kế hoạch kiểm tra là không lên lịch, kiểm tra đột xuất ngay đầu vụ, lấy tất cả mẫu phân vô cơ và hữu cơ mang đi kiểm nghiệm. Kinh phí kiểm nghiệm ban đầu từ nguồn hoạt động của Sở Công thương. Trong quá trình đi kiểm tra lấy mẫu, trưởng đoàn để lộ thông tin là phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở. Khi có kết quả kiểm tra, sai phạm đối với phân vô cơ thì Sở Công thương xử phạt, phân hữu cơ thì Sở NN-PTNT xử phạt. Qua đợt ra quân kiểm tra đột xuất việc SXKD phân bón trên địa bàn Trà Vinh đã lộ rõ cơ chế quản lý chưa nghiêm. Mức phạt đối với một mẫu phân bón kém chất lượng, phân giả quá thấp. Để giảm được nạn gian lận thương mại trong việc sản xuất kinh doanh phân bón, trong thời gian tới, kiến nghị Bộ Công thương, Chính phủ xem xét có chế tài mạnh đối với những cơ sản sản xuất và rút giấy phép kinh doanh đối với đại lý tiêu thụ hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng. Sở Công thương Trà Vinh đã gửi văn bản đến Sở Công thương các tỉnh có Cty sản xuất hàng giả, kém chất lượng để tiến hành kiểm tra và xử lý tại gốc. Thời kỳ bón Liều lượng bón kg/gốc Cách bón Đợt 1 Cuối tháng 3 - đầu tháng 4 + 0,5 -0,7kg/gốc NPK 10.12.5 Đào lật đất xung quanh tán lá cà phê cách gốc 20 - 30cm rộng ra 15 - 20cm, sâu 5cm rải đều phân NPK Văn Điển sau đó lấp đất kín phân. - ở những nơi điều kiện tưới khó khăn nên lợi dụng đất còn ẩm sau mưa để bón phân. - Nếu đất dốc thì bón phân vào hố giữ màu rồi phủ đất, cỏ lá mục kín phân. Đợt 2 Tháng 6 + 0,6 -0,8kg/gốc NPK 12.8.12 Đợt 3 Tháng 8 - 9 + 0,7 - 0,9kg/gốc NPK 16.6.16 .. Ngoài ra, các cấp Hội đã ủy thác với Ngân hàng CSXH giúp gần 26.000 hộ hội viên vay gần 367 tỷ đồng để đầu tư sản xuất... Theo tập hợp của Hội ND tỉnh, đến hết tháng 6 đã có trên 55.000 hộ hội viên ND đăng ký sản xuất kinh doanh giỏi năm 2012.Thanh Ngọc. Ảnh minh họa Bộ Tài chính cho biết, theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật thuế số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014, từ ngày 01/01/2015, thuế giá trị gia tăng mặt hàng phân bón, thức ăn cho gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác từ 5% chuyển sang đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Mặt khác, qua theo dõi, từ quý III/2014 đến nay, giá phân bón Urê trên thị trường thế giới, giá các nguyên liệu chính sản xuất thức ăn chăn nuôi và giá xăng dầu trong nước biến động giảm mạnh. Tuy nhiên, giá mặt hàng phân đạm Urê, phân NPK, thức ăn chăn nuôi chưa thể hiện rõ xu hướng giảm. Bởi vậy, Bộ Tài chính đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Tài chính phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Thuế, Chi cục Quản lý thị trường và các cơ quan liên quan có văn bản yêu cầu các DN sản xuất, kinh doanh phân đạm Urê, phân NPK, thức ăn chăn nuôi thực hiện rà soát chi phí đầu vào, thực hiện giảm giá trước biến động giảm giá của các yếu tố đầu vào và thực hiện kê khai giá theo quy định. Đồng thời hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện kê khai giá, niêm yết giá, thực hiện giá bán phân đạm Urê, phân NPK, thức ăn chăn nuôi theo đúng quy định; Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng... Bên cạnh đó, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở Công Thương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ hop quy, phan bon npk được giao chủ trì, phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan chủ động lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra về chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi, phân đạm Urê, phân NPK. Trong quá trình kiểm tra, thanh tra nếu phát hiện vi phạm như: sản xuất, kinh doanh, sử dụng các loại thức ăn chăn nuôi, phân đạm Urê, phân NPK trong Danh mục cấm sử dụng, hạn chế sử dụng, kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái và các vi phạm khác cần xử lý kiên quyết, triệt để các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật hiện hành... L.T. CôngThương - Sau khi hoàn thành nhà máy sẽ cung cấp phân bón chất lượng cao cho vùng lúa trọng điểm phía Nam và các tỉnh Tây nguyên. Sản phẩm NPK phức hợp bằng công nghệ hóa lỏng Urê là công nghệ tiên tiến, hiện đại, cho phép sản xuất các công thức phân bón có hàm lượng dinh dưỡng cao, phân bón đặc chủng đa yếu tố cho từng loại cây trồng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp hiện đại. Với sản phẩm này, cây trồng dễ hấp thụ, giảm thất thoát dinh dưỡng do điều kiện thời tiết gây ra, giảm hàm lượng lưu huỳnh trong phân nhằm làm giảm độ chua của đất. Nhà máy dự kiến sẽ đi vào sản xuất tháng 6/2014, tạo công ăn việc làm cho 150 lao động. Dương Lài PHẢN HỒI. Trong tháng 6/2008, nhập khẩu hầu hết các loại phân bón đều giảm mạnh. Trong đó, nhập khẩu DAP giảm mạnh nhất, giảm 65,95% về lượng và giảm 64,86% về trị giá so với tháng trước, đạt 33,8 nghìn tấn với trị giá 35,6 triệu USD. Đặc biệt, trong tháng này lượng DAP nhập về chủ yếu từ thị trường Tunisia với trên 27 nghìn tấn, giá nhập về 1.347 USD/tấn, CFR cảng Khánh Hội. Lượng phân DAP còn lại được nhập về từ thị trường Trung Quốc và Hàn Quốc, giá nhập về từ Hàn Quốc đạt 1078 USD/tấn, CFR cảng Khánh Hội; Trung Quốc đạt trung bình 954 USD/tấn, giảm 64 USD/tấn so với giá nhập về tháng trước.Lượng phân bón NPK nhập về cũng giảm mạnh, giảm 61,48% so với tháng trước và giảm 71,32% so với cùng kỳ năm 2007, đạt trên 7 nghìn tấn với trị giá gần 6 triệu USD. Giá nhập khẩu trung bình đạt 765 USD/tấn. Lượng NPK nhập về trong tháng này chủ yếu từ thị trường Hàn Quốc, chiếm 83% tổng lượng nhập khẩu. Giá nhập về từ thị trường này đạt 765 USD/tấn, CIF cảng Phú Mỹ.So với tháng 5/2008, nhập khẩu Urea cũng giảm 48% về lượng và giảm 47,51% về trị giá, đạt trên 37 nghìn tấn, trị giá 15,4 triệu USD. Giá nhập khẩu trung bình 415 USD/tấn, tăng 4 USD/tấn sovới giá nhập tháng trước.Tính đến hết quý II năm 2008, nhập khẩu phân bón của Việt Nam đạt xấp xỉ 2,2 triệu tấn với trị giá trên 1 tỷ USD, tăng 20,23% về lượng và tăng 134,36% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, Urea là chủng loại phân bón được nhập về đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, tăng 67,72% về lượng và tăng 145,55% về trị giá so với 6 tháng năm 2007, đạt gần 525 nghìn tấn, trị giá 202,3 triệu USD. Bên cạnh đó, nhập khẩu NPK cũng tăng 32,79% về lượng và tăng 168,47% về trị giá so với cùng kỳ năm trước, đạt 140,5 nghìn tấn với trị giá 75,5 triệu USD. Trong khi đó, lượng DAP và SA nhập về lại giảm so với cùng kỳ năm trước, DAP giảm 12,35% đạt 315,8 nghìn tấn; SA giảm 5,69%, đạt 433,9 nghìn tấn.


II. chứng nhận hợp quy phân vi lượng Dấu CR Quacert Trung tâm chứng nhận QUACERT không cấp quyền sử dụng dấu hợp quy không có số


.1. Thời vụ Gieo hạt từ tháng 10, tháng 11 đến tháng 1 năm sau. Vụ gieo tháng 10, tháng 11 sẽ ra quả vào tháng 12, tháng 1. Vụ gieo tháng 12, tháng 1 sẽ ra quả vào tháng 2, tháng 3. Ở miền Bắc trong vụ đông, điều chỉnh vụ gieo sao cho khi cây ra hoa tránh được rét để tăng khả năng thụ phấn và đậu quả. Gieo sớm quá hoặc gieo muộn hơn, lúc ra hoa, quả gặp rét hoặc mưa sớm sẽ thất thu, cây mau rạc. 2. Làm đất và trồng Bí đỏ có bộ rễ rất phát triển nên có khả năng chống hạn rất cao. Do đặc điểm này, muốn trồng bí đỏ đạt năng suất cao cần phải làm đất sâu và kỹ, độ pH 5,5 - 7,5. Trồng bí đỏ theo những hốc thẳng hàng, hốc sâu 30 - 40 cm, rộng 40 - 50 cm, cách nhau từ 2 đến 3 m tùy theo đất xấu hay tốt; giữ mật độ 2.000 - 2.500 cây/ha 70 - 90 cây/sào Bắc bộ, mỗi hốc gieo 5 - 6 hạt cách đều nhau, gieo hạt xong lấp lên một lớp đất mỏng 2 - 3 cm rồi tưới nước giữ ẩm. Bón lót cho bí đỏ chủ yếu là bón theo hốc, sau khi bổ hốc rồi để 2 -3 ngày cho hả đất rồi mới bón phân, bón xong trộn với đất đảo đều, lại để 2 - 3 hôm nữa mới gieo hạt. 3. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây bí đỏ Tính theo một sào Bắc bộ là 360 m 2. + Bón lót: Phân chuồng 600 - 700 kg nếu đất chua bón thêm 25 - 30 kg vôi bột. NPK-S 5.10.3-8: bón 12 - 15 kg. + Bón thúc 1: NPK-S 12.5.10-8: bón 10 - 12 kg. + Bón thúc 2: NPK-S 12.5.10-8: bón 10 - 12 kg. Tính cho 1 ha: + Bón lót: Phân chuồng 15.000 - 18.000 kg nếu đất đồi, đất chua bón thêm 600 - 800 kg ha vôi bột vào lúc làm đất. NPK-S 5.10.3-8: Bón 330 - 415 kg. + Bón thúc 1 khi cây cao độ 40 - 50 cm: NPK-S 12.5.10-8: bón 280-330 kg. + Bón thúc 2 ở thời kỳ ra nụ hoa tập trung để cây có thể đậu quả nhiều, quả to và chắc hơn: NPK-S 12.5.10-8: bón 280 - 330 kg. 4. Chăm sóc Tưới nước, bấm ngọn, nhánh, tỉa hoa đực và lá vàng. Ở giai đoạn cây con cần tưới nước giữ ẩm đất 50 - 60% độ ẩm đồng ruộng. Khi bí đỏ bò dài trên dưới 1 m thì lấy đất chặn lên các đốt dây để tăng thêm rễ phụ làm tăng khả năng hút dinh dưỡng và giữ cho cây khỏi bị gió lay làm dập thân cây, hại hoa quả. Cần bấm ngọn làm rau ăn chỉ để lại mỗi cây 2 - 4 nhánh. Hoa đực thường ra trước hoa cái. Số hoa đực rất nhiều so với hoa cái nên khi hoa cái đã thụ tinh xong cần cắt bỏ bớt hoa đực, tỉa bỏ bớt các nhánh con kém phát triển, vặt bỏ các lá già mọc chen chúc để thêm thoáng cho cây, ong bướm dễ tìm hoa, tăng thêm khả năng thụ phấn thụ tinh và đậu quả cho cây bí đỏ. Thụ phấn bổ khuyết cho hoa cái: Trên 1 cây bí đỏ hoa đực và hoa cái thường không nở cùng lúc, trong nhiều trường hợp khi đầu nhụy hoa cái có khả năng tiếp nhận hạt phấn tốt thì hoa đực đã tàn, sức sống của hạt phấn đã kém, do đó tỷ lệ đậu quả không cao. Vậy cần phải thụ phấn bổ khuyết cho cây bí đỏ. Tiến hành vào lúc hoa cái nở nhiều; khoảng 7 - 9 giờ sang ngắt hoa đực, bỏ hết đài và cánh hoa rồi nhấn nhị đực lên đầu vòi nhụy của hoa cái, hay lấy panh cặp ít bong chấm nhẹ phấn ở nhị đực rồi quét lên nuốm nhụy cái. Chọn ngày nắng ráo để thụ phấn bổ khuyết chắc chắn tỷ lệ đậu quả trên cây bí đỏ sẽ cao. Sau khi thụ phấn thụ tinh xong, quả non phát triển. Tùy theo yêu cầu mà có thể hái quả ở các độ tuổi khác nhau. Nếu trên cây đậu nhiều quả thì phải tỉa bớt khi còn non để tập trung dinh dưỡng nuôi số quả còn lại. Sp; Chi cục HQ Bắc Phong Sinh Quảng Ninh 2. Xe trượt thể thao trẻ em trên 3 tuổi, hiệu XIAOLIMING 4,83 USD/cái Chi cục HQ Bắc Phong Sinh Quảng Ninh 3. Bầu quạt điện dân dụng loại đứng hiệu Komasu 2,88 USD/cái Chi cục HQ Bắc Phong Sinh Quảng Ninh 4. Thạch cao tự nhiên dạng khoáng chất chưa nung 9 USD/T Chi cục HQ CK Lao Bảo Quảng Trị 5. Ammonium nitrate NH4NO3>99,5% TQSX 990 USD/T Chi cục HQ CK Lào Cai 6. SODIUM TRIPOLY PHOSPHATE STPP 1.070 USD/T Chi cục HQ CK Lào Cai 7. Dây dẫn tín hiệu bọc nhựa dạng cuộn 0,21 CNY/mét Chi cục HQ CK Trà Lĩnh Cao Bằng. 8. Cát vàng thiên nhiên 2,5 USD/m3 Chi cục HQ CK Vĩnh Xương An Giang 9. Than cốc luyện từ than đá 3.130 CNY/T Chi cục HQ ga đường sắt Lào Cai10. Tủ bảo quản thực phẩm làm lạnh 200 USD/cái Chi cục HQ Tân Thanh Lạng Sơn 11. Máy đóng nút chai 220 v/370w. JY 7134 25 USD/cái Chi cục HQ Tân Thanh Lạng Sơn 12. Điện trở cố định công suất 1/4w 15,9 CNY/kg Chi cục HQ Tân Thanh Lạng Sơn 13. Thâm micro dài Xuất khẩu 1. Đá xây dựng đánh bóng, vát cạnh 80x40x3cm 35 USD/m2 Chi cục HQ cảng Thanh Hóa 2. Chè xanh khô 15.000 VND/kg Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 3. Tinh bột sắn 2.550 CNY/T Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 4. Máy dập lúa liên hoàn không kém động cơ 7.640.000 VND/cái Chi cục HQ CK Chi Ma Lạng Sơn 5. Bánh đậu xanh Chí Hường 18.000 VND/kg Chi cục HQ hợp quy, phân bón npk CK Chi Ma Lạng Sơn 6. Bong bóng cá tra đông lạnh 1,53 USD/kg Chi cục HQ CK Hoành Mô Quảng Ninh 7. Tôm càng nguyên con IQF 8,59 USD/kg Chi cục HQ CK Hoành Mô Quảng Ninh 8. Vỏ bao PP 0,35 USD/cái Chi cục HQ CK Thường Phước Đồng Tháp 9. Thép ống kẽm phi 49x3,2mmx6m 1,28 USD/kg Chi cục HQ CK Tịnh Biên An Giang 10. Thép gai xây dựng phi 12x12m 0,73 USD/kg Chi cục HQ CK Tịnh Biên An Giang 11. Phân bón NPK 16-16-8 13S VNSX 580 USD/T Chi cục HQ CK Tịnh Biên An Giang 12. Phân NPK 16-16-8-13S 680 USD/T Chi cục HQ CK Vĩnh Xương An Giang. Cây na dai bón phân NPK-S cho năng suất cao. Với diện tích 880ha tập trung ở 3 xã: An Sinh, Việt Dân, Tân Việt, cây na dai là cây trồng quan trọng trong chiến lược chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên toàn huyện. Năm 2013 – 2014 Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao phối hợp với Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh triển khai 3 mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại 2 xã An Sinh và Việt Dân với tổng diện tích 3ha mỗi xã 1,5ha. Tổng số hộ tham gia mô hình là 5 hộ. Theo đó, người nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% phân bón NPK-S 12.5.10-14 Lâm Thao, Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh vận chuyển phân bón đến tận vườn cho nông dân. Ngay sau khi triển khai mô hình, Phòng Kinh doanh Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao, Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh, Phòng NNPTNT huyện Đông Triều, Hội Sản xuất kinh doanh na dai của huyện, cán bộ khuyến nông của 2 xã An Sinh và Việt Dân đã tổ chức tập huấn, chuyển giao quy trình kỹ thuật sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao, kết hợp với phương pháp thụ phấn nhân tạo cho cây na dai. Trong suốt thời gian sinh trưởng và phát triển, cán bộ Phòng Kinh doanh Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã cùng với cán bộ khuyến nông bám sát vườn na, hướng dẫn bà con nông dân bón phân đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo yêu cầu dinh dưỡng về thành phần và đủ lượng. Cụ thể: Mỗi năm bón 3 đợt: - Đợt 1: Bón sau thu hoạch quả- vào tháng 9–10, sử dụng NPK-S 12.5.10-14 với lượng 2,5kg/cây. - Đợt 2: Bón trước ra hoa- vào tháng 2–3, sử dụng NPK-S 12.5.10-14 với lượng 2,5kg/cây. - Đợt 3: Bón nuôi quả- vào tháng 6–7, sử dụng NPK-S 12.5.10-14 với lượng 2,5kg/cây. Vào vụ thu hoạch, bà con nông dân các xã An Sinh, Việt Dân khẩn trương thu hoạch với tâm trạng vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi. Bà con nông dân lựa từng trái na, xếp vào thùng xốp, các thương lái đến tận vườn để mua rồi vận chuyển đi tiêu thụ tại các thị trường như Hà Nội, Hải Phòng… Trao đổi với chúng tôi, ông Hoàng Văn Phong ở thôn Phúc Thị, xã Việt Dân cho biết: Hiện gia đình ông có 2ha na dai được trên 10 năm tuổi, đây là giai đoạn sung mãn nhất của cây na, về phân bón từ trước đến nay tôi đã sử dụng nhiều loại phân bón của các công ty khác nhau, nhưng năm nay lần đầu tiên tôi sử dụng phân bón NPK-S 12.5.10-14 Lâm Thao và bón đúng theo quy trình kỹ thuật. Bón phân Lâm Thao cho cây na dai dễ làm, ít tốn công, cây na sinh trưởng và phát triển tốt, lá có màu xanh đậm, năng suất đạt 15 tấn/ha. Trong khi đó các diện tích bón phân thông thường năng suất na chỉ đạt 13 tấn/ha. Đặc biệt ở những vườn bón phân NPK-S Lâm Thao quả na to hơn, giá bán cao hơn các vườn khác 2.000 đồng/kg. Từ nay trở đi tôi sẽ sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao để bón cho cây na dai chứ không sử dụng các loại phân bón khác nữa” – ông Phong nói. Ông Hoàng Đức Quang – Giám đốc Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh cho biết: Tháng 8.2013 Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã hỗ trợ 22,5 tấn phân bón NPK-S 12.5.10-14 cho 5 hộ thuộc 2 xã An Sinh và Việt Dân để dựng mô hình bón phân cho cây na dai với diện tích 3ha. Mặc dù thời tiết đầu vụ rét đậm, rét hại kéo dài đã làm chậm, kéo dài thời gian sinh trưởng của cây na dai, song do được bón phân NPK-S Lâm Thao có đủ các dinh dưỡng đa lượng, trung lượng, vi lượng kết hợp với biện pháp thụ phấn nhân tạo nên năng suất na dai đạt 15 tấn/ha/năm, tăng 10% so với bón phân thông thường, giá bán na dai tại vườn trung bình đạt 20.000 đồng/kg, thu nhập sau khi đã trừ chi phí cho lãi 250 triệu đồng/ha/năm, tăng giá trị so với bón các loại phân truyền thống khác từ 15–20 triệu đồng/ha/năm, người dân rất phấn khởi. Phát biểu tại hội nghị tổng kết mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại huyện Đông Triều ngày 27.8.2014, ông Vũ Xuân Hồng – Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã phân tích những ưu điểm của phân bón Lâm Thao, khẳng định về chất lượng. Ghi nhận thành công của mô hình và cam kết trong thời gian tới công ty sẽ tiếp tục triển khai các mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cân đối, khép kín cho cây na dai và các loại cây trồng mới có hiệu quả kinh tế cao, tổ chức các hội nghị tập huấn kỹ thuật sử dụng phân bón Lâm Thao cho các xã trong toàn huyện. Thông qua Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh tổ chức cung ứng đầy đủ, kịp thời phân bón Lâm Thao đáp ứng nhu cầu phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trên toàn tỉnh Quảng Ninh. Qua mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại huyện Đông Triều cho thấy, sử dụng phân bón cân đối, hợp lý kết hợp với thụ phấn nhân tạo đã đem lại những hiệu quả tích cực: Cây na dai sinh trưởng và phát triển tốt, năng suất tăng so với bón phân truyền thống 10%, quả na to hơn, bán được giá hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn từ 15 – 20 triệu đồng. Từ kết quả của mô hình thực tế đã đạt được, hy vọng với phương pháp bón phân NPK-S Lâm Thao theo quy trình khép kín sẽ ngày càng được mở rộng tại nhiều địa phương, góp phần vào quá trình xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Năm 2013 - 2014 Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao phối hợp với Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh triển khai 3 mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại 2 xã An Sinh và Việt Dân với tổng diện tích 3ha mỗi xã 1,5ha. Tổng số hộ tham gia mô hình là 5 hộ. Theo đó, người nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% phân bón NPK-S 12.5.10-14 Lâm Thao. Hộ ít nhất được hỗ trợ 50kg phân bón cho 3 sào lúa, hộ cao nhất 150kg phân bón cho 1ha lúa. Hàng trăm ha lúa Đông xuân năm nay của xã An Lạc được Báo Nông thôn Ngày nay hỗ trợ phân bón có khả năng cho mùa vàng bội thu. Trước đó, Báo Nông thôn Ngày nay cũng đã tặng 50 suất quà gồm quần áo ấm, chăn, giày ủng, bánh kẹo cho trẻ em thôn Choong Thèn, xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Một số hình ảnh Báo Nông thôn Ngày nay, điện tử Dân Việt hỗ trợ phân bón cho nông dân xã An Lạc Lục Yên, Yên Bái:Người dân xã An Lạc Lục Yên, Yên Bái được nhận từ 50kg đến 150kg phân bón.12 tấn phân NPK hỗ trợ 200 hộ nông dân 3 thôn xã An Lạc.Người dân tập trung đầy đủ để nhận phân bón về chăm sóc lúa vụ. Xuân Nam .


TCty Phân bón & hóa chất dầu khí PVFCCo, Cty Cổ phần Phân bón & hóa chất Đông Nam bộ PVFCCo SE phối hợp với Trung tâm KN-KN tỉnh Bình Phước tổ chức hội thảo Tổng kết mô hình trình diễn phân bón NPK 16-16-8+13S Phú Mỹ trên cây tiêu” tại huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. So với đối chứng, vườn tiêu sử dụng NPK Phú Mỹ có bản lá dày, đọt non ra đều, tập trung, hoa ra đồng loạt, trái đóng đông đặc, to bóng, tăng năng suất trên 6%, lợi nhuận thêm 60 triệu đồng/ha so với cách canh tác theo phương pháp truyền thống giá tiêu tính theo thời điểm thu hoạch. Mặt hàng Giá NDT/tấn Phân ure hạt to 2.750 Phân ure hạt mịn 2.830 Phân ure không đóng bao 2.640 Phân NPK 2.520 Phân DAP 2.980 Phân SA 1.860 Phân MOP 2.500 Phân SOP 2.180 Phân MAP 2.900 Phân lân 1.670. Sản phẩm NPK cao cấp Hữu Nghị do Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị - Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài sản xuất. Hiện tại, đây là Nhà máy đầu tiên và duy nhất tại miền Bắc sản xuất phân bón NPK cao cấp theo công nghệ hiện đại nhất hiện nay - công nghệ hóa lỏng urê và tạo hạt bằng hơi nước. Sản phẩm đã có mặt ở tất cả các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung bộ với nhiều chủng loại NPK 20-20-15+TE, NPK 16-16-8+13S, NPK 15-5-16+TE, NPK 13-13-13+TE, NPK 13-7-5+TE... Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho tất cả các loại cây trồng theo từng giai đoạn bón lót, bón thúc.Vụ mùa vừa qua, Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đã phối hợp với UBND các huyện ở nhiều địa phương tổ chức các mô hình trình diễn đánh giá hiệu quả sử dụng phân bón Hữu Nghị so với các loại phân bón khác trên các vùng đất khác nhau. Kết quả người dân đánh giá phân bón Hữu Nghị phù hợp với các loại chất đất, vùng miền, cây trồng, đặc biệt là cho năng suất cây trồng cao, chống chịu được sâu, bệnh và giúp cây cứng hơn nên phòng được việc đổ ngã của cây và hạn chế được sâu, bệnh tàn phá mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn các loại phân đối chứng.Qua tìm hiểu thực tế ở một số địa phương tổ chức mô hình, chúng tôi ghi lại được các ý kiến đánh giá của việc sử dụng phân bón Hữu Nghị. Tại xã Thiệu Vân Thiệu Hóa - Thanh Hóa, một xã thuần nông lâu nay chỉ quen sử dụng phân NPK hàm lượng dinh dưỡng thấp và phân đơn.Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đầu tư Nhà máy sản xuất phân bón NPK chất lượng cao theo công nghệ hiện đại, tự động hóa hoàn toàn bằng phần mềm vi tính cho ra những sản phẩm phân bón hàm lượng dinh dưỡng cao, đồng đều, ổn định về chất lượng, viên phân sạch sẽ, chắc bóng, lượng bón ít làm giảm các chi phí chăm bón, vận chuyển, lưu thông, bảo vệ môi trường và sức khỏe người sử dụng, nâng hiệu quả sản xuất. Ông Hoàng Đức Thiện - thôn Phúc Hòa, xã Thiệu Vân cho biết: Tôi có 4 sào ruộng trồng lúa. Cả hai vụ gần đây, tôi bón phân Hữu Nghị. Bằng kinh nghiệm trồng lúa lâu năm, tôi nhận thấy, khi bón phân Hữu Nghị cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh, bộ rễ ăn sâu và có nhiều rễ trắng, cây lúa cứng. Nhờ đó mà lúa sinh trưởng phát triển tốt, đẻ nhánh sớm, lúa đẻ khỏe, lúa đẻ, trổ bông và chín tập trung, chín đều với một màu vàng đẹp. Nhìn bộ lá rất ưng mắt, có thể do hàm lượng dinh dưỡng trong phân hợp lý nên màu lá xanh bền. Lá lúa dầy, cứng, bản lá to, hop quy, phan bon npk đứng lá, số nhánh hữu hiệu tăng. Sử dụng loại phân này hạn chế được tối đa sâu, bệnh phá hoại. Đặc biệt năng suất lúa tăng rõ rệt, cao hơn so với ruộng không sử dụng phân bón Hữu Nghị 50kg/sào”.Đồng quan điểm với ông Thiện, anh Thiều Quang Khuyên - thôn 9, xã Yên Phong Yên Định - Thanh Hóa nhận định: Vụ mùa này, được sự khuyến cáo của các cán bộ nông nghiệp, tôi và một số hộ trong thôn đã thay đổi cách sử dụng phân bón. Quá trình chăm sóc, theo dõi tôi thấy rằng, lúa có sử dụng phân Hữu Nghị thì cây cứng và tỷ lệ hạt chắc nhiều hơn. Về mặt sản lượng thì cao hơn ruộng không sử dụng phân Hữu Nghị khoảng 35-40kg/sào. Và thực tế theo hướng dẫn của Phòng NN- PTNT huyện và Công ty, chúng tôi bón đúng quy định như vậy thì thấy số lượng bón phân Hữu Nghị chỉ chưa đến ½ so với số lượng của một số loại phân NPK khác. Không chỉ có giảm đi chi phí chăm bón mà còn giảm được chi phí thuốc BVTV.Với suy ngẫm là phải dùng loại phân bón nào mà số lượng bón ít, giảm công sức và chi phí, nhiều hộ dân của huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đã mạnh dạn đưa phân Hữu Nghị vào đồng ruộng. Vụ mùa vừa rồi, các hộ sử dụng phân bón Hữu Nghị tại huyện Ninh Giang phấn khởi lắm. Anh Phạm Gia Thạo - thôn Vĩnh Xuyên đã mạnh dạn bón phân Hữu Nghị cho toàn bộ diện tích lúa vụ mùa của gia đình. Nói chuyện với chúng tôi, anh Thạo khoe: Dùng phân này chúng tôi thấy rõ cây cứng, không bị đổ ngã trong khi các ruộng xung quanh bón phân khác qua đợt mưa to vừa rồi đều đổ hết”. Sản phẩm NPK Lam Sơn khi đưa vào sử dụng đạt năng suất cao và thân thiện với môi trường bởi trong quá trình sản xuất không có chất thải, sản xuất không cần nước, không có chất thải nóng… Năm 2013, công ty được trao các cup: Vì môi trường xanh quốc gia”; Sản phẩm uy tín 2013”, Nhãn hiệu nổi tiếng”; Sản phẩm chất lượng vàng”..
Thực tế đất đai ở Tây Nguyên thường là chua, pH thấp từ 3,8- 4,2 lại rất nghèo chất canxi, lưu huỳnh, Bo và những chất vi lượng khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cây hồ tiêu phát triển được trên đất có pH từ 4,5 - 7, tối ưu là 5,5 - 6,5. Nhu cầu dinh dưỡng của cây hồ tiêu: Với mật độ khoảng 1.750 trụ/ha, mỗi năm cây tiêu hút từ đất một lượng dinh dưỡng là 250 kg đạm N, 35 kg P2O5, 205 kg K2O, 45kg CaO và 20kg MgO. Như vậy nhu cầu về đạm, kali của hồ tiêu cao hơn so với lân, ngoài các chất dinh dưỡng đa lượng N,P,K, cây hồ tiêu rất cần hút các nguyên tố trung và vi lượng trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển. + Canxi CaO: Rất cần cho cây tiêu sử dụng, canxin vừa là nguyên tố dinh dưỡng trung lượng, vừa là nguyên tố phòng, chống bệnh, cải thiện độ chua của đất tăng khả năng kháng bệnh ở rễ tiêu. + Magiê MgO: Có tác dụng khử chua và cải tại đất như canxin, hơn nữa nó là chất thiết yếu tạo nên diệp lục tố của cây, giúp cây trồng tổng hợp protein, magiê rất cần cho sự quang hợp, chuyển hóa dinh dưỡng, giúp cây sinh trưởng mạnh mẽ, xanh tốt, trái to, chắc hạt, chống chọi tốt với mùa khô hạn tăng khẳ năng đề kháng cho cây, chống được bệnh nám mặt lá ở cây. + Silic SiO2: Giúp cho cây tăng khả năng oxy hóa, làm cứng thành vách tế bào do silic nằm trong thành phần cellulose của thành tế bào, chống lại sâu bệnh hại, đặc biệt là rệp và bệnh thối đầu lá, tăng khả năng quang hợp. + Lưu huỳnh S: Thiếu lưu huỳnh sẽ gây ra bệnh bạc lá và làm giảm năng suất, chất lượng tiêu rất rõ. Do đất Tây Nguyên quá thiếu nên phải chú ý để cung cấp bổ sung cho cây. + Bo: Bo là nguyên tố vi lượng rất quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của một số enzym, nó có khả năng tạo phức với các hợp chất polyhydroxy khác nhau. Bo làm tăng khả năng thấm ở màng tế bào, làm cho thành tế bào vững chắc và việc vận chuyển hydratcarbon được dễ dàng. Bo liên quan tới quá trình tổng hợp protein, lignin. Bo thiết yếu đối với sự phân chia tế bào và quá trình thụ phấn ở cây... + Kẽm Zn, Mangan Mn…: Mặc dù cây hút rất ít những rất quan trọng trong đời sống của cây tiêu, do góp phần tạo nên các enzym, tham gia vào quá trình quang hợp, trao đổi chất…thiếu chúng các chức năng tế bào của cây bị suy yếu, rất dễ bị nhiễm bệnh, sâu phá hại. 2. Phân bón NPK Văn Điển thích hợp cho cây hồ tiêu + Loại phân bón sử dụng cho cây hồ tiêu: Phân NPK 12.8.12: N=12%; P2O5=8%; K2O=12%; S=3%; MgO=8%; CaO=15%; SiO2=13 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co…tổng dinh dưỡng trên 71%. Phân NPK 16.6.16: N=16%; P2O5=6%; K2O=16%; S=2%; MgO=5%; CaO=8%; SiO2=7 và các chất vi lượng B, Mn, Zn, Cu, Co…tổng dinh dưỡng trên 60%. + Liều lượng và cách bón ĐVT kg/ha: Trồng mới: 400-500kg NPK 12.8.12 phân NPK Văn Điển loại 12.8.12 trộn đều đất trong hố trước khi đặt bầu. Năm thứ 2: 1.000 - 1.200 kg NPK 12.8.12. Phân NPK Văn Điển được chia bón 3-4 lần vào các thời điểm. Khi cây tiêu ra hoa, khi cây đã đậu quả và bón sau thu hoạch. Năm thứ 3: 1.600 - 1.800 kg NPK 12.8.12 Thời kỳ kinh doanh: 2.200 - 2.500 kg NPK 16.6.16 Chú ý: Khi đất đủ ẩm, rải đều phân NPK Văn Điển chung quanh tán cây tiêu, xăm xới nhẹ lấp đất kín phân, tránh làm đứt rễ tiêu. Hồ tiêu được bón phân ĐYT NPK Văn Điển sẽ tránh được các bệnh đốm lá, héo rụng lá, bệnh thối rễ, cây cho năng suất cao, chất lượng tốt, hương vị thơm ngon hơn bón phân thông thường do được cung cấp cân đối dinh dưỡng đa lượng, trung lượng và vi lượng. Bón phân đa yếu tố ĐYT NPK của Cty CP Phân lân nung chảy Văn Điển, cây Hồ tiêu không những được cung cấp cân đối, đồng thời các chất dinh dưỡng đa lượng đạm, lân, kali mà còn được cung cấp bổ sung thêm các chất trung lượng như canxi, magiê, silíc và các chất vi lượng bo, đồng, côban, molipđen... Rất cần thiết cho cây mà các loại phân bón khác không có. Đặc biệt phân Văn Điển có pH từ 8- 8,5 nên khi bón sẽ cải tạo nâng cao pH đất, là nguồn dự trữ dinh dưỡng cung cấp từ từ đầy đủ cho cây. Hồ tiêu là cây ưa đất tơi xốp, thoát nước tốt nhưng nó có bộ rễ ngắn ăn nông phần rễ đóng vai trò hút nước hút dinh dưỡng cho cây được mọc thành chùm ở độ sau từ lớp đất mặt đến 40 cm. Nếu ta bón loại phân dễ tan thì khi tưới nước, sau thời gian ngắn phân tan hoàn toàn, một phần được cây hút, phần còn lại ngấm xuống tầng đất sâu, cây không thể hút được gây ra hiện tượng thiếu phân giả tạo. Phân bón Văn điển không tan trong nước, chỉ tan trong môi trường do rễ cây tiết ra nên hiệu quả sử dụng cao lên đến 97 – 98%. CÔNG TY CP PHÂN LÂN NUNG CHẢY VĂN ĐIỂN - Đơn vị đạt 4 danh hiệu anh hùng - Giải thưởng tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO - DN Phân bón duy nhất đạt TOPTEN Thương hiệu Việt 2011 - TOPTEN Sản phẩm vàng Việt Nam 2012 - Địa chỉ: Đường Phan Trọng Tuệ, huyện Thanh Trì, Hà Nội - Điện thoại: 043.688.4489 - Fax: 043.688.4277 - Website: vafco.vn. Chế tạo, hạ thủy chân đế giàn khoan siêu trường, siêu trọng Ðòn bẩy cạnh tranh Thêm hai cuốn sách có giá trị cao về khoa học tự nhiên Nữ tiến sĩ Y khoa Việt Nam được nhận Giải thưởng L’Oréal-UNESCO. Cụ thể, theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết, đến cuối tháng 3/2010, lượng urê nhập khẩu là 280.000 tấn, kali 171.000 tấn, DAP 83.000 tấn... Trong tháng 4/2010, sẽ có thêm khoảng 85.000 tấn urê từ sản xuất trong nước. Như vậy, để chuẩn bị cho vụ hè thu, nước ta sẽ có hop quy, phan bon npk khoảng 661.000 tấn urê, 128.000 tấn DAP, 190.000 tấn kali, 250.000 tấn super lân, 100.000 tấn lân nung chảy, 1.300.000 tấn NPK, 30.000 tấn phân vi sinh, phân hữu cơ... Với lượng phân bón khá lớn được dự báo sẽ đủ cung cấp cho vụ lúa hè thu, song theo các chuyên gia, nhiều khả năng giá phân bón vẫn tăng bởi do tác động của nhiều yếu tố như giá xăng dầu, điện, than tăng, sẽ ảnh hưởng tới giá thành của phân bón sản xuất trong nước... Để bình ổn thị trường phân bón, các chuyên gia cho rằng ngành sản xuất phân bón trong nước cần phải được quan tâm phát triển để tăng sản lượng nhằm chủ động đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa. Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh sản xuất phân NPK chất lượng cao. Loại phân bón này nếu tăng cường cải tiến, đổi mới công nghệ thì có thể thay thế được một phần DAP nhập khẩu. Nếu sản xuất nội địa bảo đảm sẽ hạn chế đáng kể tình trạng nhập siêu…. Công văn trả lời Báo Lao Động của UBND huyện Thanh Chương.


III. Dấu CR Quacert Trung tâm chứng nhận QUACERT không cấp quyền sử dụng dấu hợp quy không có số


Như LĐ đã phản ánh trong số báo ra ngày 10.3, hàng chục hộ trồng dưa ở Sông Cầu, Sông Hinh, Đồng Xuân Phú Yên và Tây Sơn Bình Định đã phải chịu cảnh mất mùa, lỗ vốn sau khi sử dụng phân bón mua từ Cty Anh Trang. Kiểm tra DN này, Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Bình Định phát hiện, tạm giữ 25 bao phân có dấu hiệu làm giả. Kết quả kiểm nghiệm lô hàng trên cho thấy, các chỉ số hóa học đều thấp hơn nhiều so với phân bón Bình Điền thật. Một nguyên tắc quan trọng trong việc bón phân cho cây trồng là phải cân đối NPK. Đây là các nguyên tố đa lượng cây cần nhiều nhất, nếu thiếu một chất nào cũng đều ảnh hưởng không tốt đến sinh trưởng và năng suất của cây. Ngược lại nếu bị thừa cũng không có lợi cho cây, lại tốn thêm chi phí. Nhu cầu các chất NPK khác nhau tùy theo loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây. Ba yếu tố trên lại có quan hệ mật thiết với nhau, thừa hoặc thiếu chất này sẽ ảnh hưởng đến tác dụng của chất kia. Thí dụ ở gian đoạn cây còn nhỏ nếu thừa kali sẽ hạn chế hút và tổng hợp chất đạm làm cây sinh trưởng chậm. Ở giai đoạn hình thành trái và củ cây lại cần nhiều kali để tổng hợp chất đường bột, giảm tác hại của thừa đạm, làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.Lúa cao sản ngắn ngày là cây trồng đầu tiên được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu nhu cầu phân bón. Theo đấy, cứ tạo thành 1 tấn hạt, cây cần 18 – 20 kg N, 4 – 6 kg P2O5 và 22 – 26 kg K2O. Các nhà khoa học đã đề ra một quy trình bón NPK thích hợp cho lúa ở các vùng trong cả nước. Về liều lượng bón, ở vùng 2 vụ lúa của đồng bằng sông Hồng mỗi ha mỗi vụ 100 – 150kg N + 60 – 90kg P2O5 + 30 – 60kg K2O. Ở vùng 2 vụ lúa của đồng bằng sông Cửu Long cần bón 80 – 100kg N + 30 – 40kg P2O5 + 30 – 50kg K2O. Lượng bón nhiều hay ít tùy theo đất, giống lúa và mùa vụ. Vụ đông xuân cần bón nhiều đạm hơn vụ hè thu và vụ mùa.ĐẾN THỰC TIỄN SẢN XUẤTTrên cơ sở nghiên cứu đấy, năm 1996, Công ty Phân bón Bình Điền là đơn vị đầu tiên sản xuất và cung ứng cho thị trường phân chuyên dùng cho lúa với các sản phẩm NPK Đầu trâu 997, 998 và 999. Ba sản phẩm trên ứng với 3 giai đoạn bón cho lúa là 7-10 ngày, 18-20 ngày và 40-42 ngày sau sạ. Thực tế sản xuất ghi nhận phân chuyên dùng cho lúa của Bình Điền mang lại hiệu quả cao hơn, lúa cứng cây, ít đổ ngã, ít sâu bệnh và được Bộ NN-PTNT công nhận là tiến bộ kỹ thuật. Đến nay hầu hết phân NPK sử dụng trên lúa đều là phân chuyên dùng. Nhờ có phân chuyên dùng mà xu hướng bón nhiều đạm ít bón kali khiến cho cây lúa sinh trưởng nhanh và xanh tốt nhưng mềm yếu, dễ đổ ngã, hạt kém mẩy và đặc biệt là dễ bị sâu bệnh hại làm giảm năng suất và tốn thêm chi phí phòng trừ đã được giảm thiểu.Những năm sau đó, các nghiên cứu còn cho thấy do canh tác liên tục nhiều năm, nhiều vụ trong năm, nhưng không được bổ sung, trong lúc rửa trôi, xói mòn diễn ra mãnh liệt và nước phù sa lại ít được vào đồng ruộng nên đất thiếu hụt các nguyên tố trung vi lượng khác như Ma giê, đồng, sắt, kẽm, Bo… Việc bổ sung các nguyên tố trên dưới dạng các muối sun phát vào các loại phân hỗn hợp NPK – Phân chuyên dùng + TE cho lúa ra đời.Từ kết quả trên lúa, các loại phân chuyên dùng cho bắp, mía, cây ăn quả, cà phê, cao su, hồ tiêu, rau, hoa… lần lượt xuất hiện và đã có đóng góp đáng kể cho việc gia tăng năng suất và hiệu quả trong trồng trọt suốt một thập niên qua.Các nghiên cứu cũng cho thấy khi bón urea thì cây trồng chỉ sử dụng được 40-45%, phần lớn bị thất thoát hop quy, phan bon npk bởi 2 đường bay hơi 30% và rửa trôi, trực di 30%. Trước đây, các nghiên cứu về hạn chế thất thoát phân đạm được tổ chức theo hướng bọc hạt phân, bón dúi sâu, phân chậm tan nhưng cũng chỉ hạn chế tối đa được 10%. Năm 2008, Agrotain, một phát minh của các nhà khoa học Mỹ, có tác dụng ngăn cản hoạt động của men Ureasa làm hạn chế 25-30% lượng đạm thất thoát được Bình Điền đưa vào sản phẩm đầu tiên là Đạm hạt vàng 46A+, sau đấy là các sản phẩm NPK Agrotain + TE chuyên dùng như Lúa 1, Lúa 2, Cà phê cũng được sản xuất. Việc giảm thất thoát 25% không những giúp tiết kiệm chi phí đầu tư làm giảm giá thành nông sản mà còn làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.VÀ NHỮNG ỨNG DỤNG KHÁCPhân chuyên dùng cho từng loại cây, từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây tuy rất có hiệu quả nhưng việc phân phối các mặt hàng này đều khắp trên thị trường lại là chuyện không đơn giản. Bởi vậy đòi hỏi nhà nông phải có kiến thức cơ bản về phân bón và sinh lý cây trồng để sử dụng một cách linh hoạt các sản phẩm phân bón đang có tại địa phương mình. Ví dụ phân chuyên dùng NPK Agrotain Cà Phê có hàm lượng NPK 18-16-8 +TE rất gần với công thức NPK quen thuộc, lâu đời nhất là 16-16-8-13S có thể sử dụng được cho nhiều loại cây trồng khác.Hoặc giả phân chuyên dùng cho cây ăn quả Đầu Trâu AT3 NPK 14-10-17+TE bón thúc trái cho cây quả cũng có thể sử dụng loại phân này bón cho mía giai đoạn vươn lóng; tương tự phân chuyên dùng cho lúa Đầu trâu 998 bón thúc giai đoạn 18-20 ngày sau sạ NPK 20-10-6 + TE cũng có thể sử dụng được để bón hồi phục sau thu hoạch cho vườn cây ăn quả; phân chuyên dùng cho mía Đầu trâu + TE Mía 2 NPK 15-7-20 cũng có thể bón cho cao su kinh doanh…. Thu hoạch càphê. Ảnh: Quang Quyết/TTXVN Qua quá trình nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả của việc sử dụng các loại phân này kết hợp với chất giữ ẩm so với các loại phân thông thường mà người dân các tỉnh Tây Nguyên đang sử dụng khi canh tác cây công nghiệp. Điều này mang lại hiệu quả kinh tế, giảm chi phí đầu tư và thân thiện với môi trường; đem lại nhận thức mới cho người nông dân trong canh tác các loại cây công nghiệp. Các nhà khoa học đã thí nghiệm trên cây càphê tại xã Đắk Ha, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông và cây chè tại xã Lộc Thanh, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng sử dụng bón phân NPK nhả chậm kết hợp với chất giữ ẩm. Kết quả thử nghiệm trên cây chè 8 năm tuổi cho thấy, khi bón cùng lượng phân với lô chè đối chứng, năng suất chè tăng 3,2% khi sử dụng 70% lượng phân so với bình thường và tăng năng suất 8,1% khi cùng sử dụng lượng phân so với lô đối chứng. Đối với cây càphê chè Arabica 3 năm tuổi, theo cách chăm bón của nông dân cho năng suất 7,5 tấn nhân/ha, nhưng khi sử dụng phân nhả chậm với lượng phân NPK bằng 70% lượng phân người dân thường sử dụng, cây càphê chè cho năng suất 10,2 tấn nhân/ha. Từ kết quả nghiên cứu và thực tế áp dụng đối với các loại cây công nghiệp, các nhà khoa học cho biết, khi sử dụng phân nhả chậm, người nông dân sẽ giảm được một lượng lớn chi phí về nhân công, kho bãi và phương tiện vận chuyển. Hơn nữa, việc sử dụng phân nhả chậm có độ thân thiện với môi trường cao hơn nhiều lần so với các loại phân thông thường. Theo nhiều công trình khoa học gần đây, người nông dân sử dụng lượng phân bón được các loại cây trồng hấp thụ rất thấp: phân đạm chỉ được hấp thụ 30%, phân lân và kali hấp thụ khoảng 40%. Số còn lại bị thất thoát do quá trình rửa trôi hoặc phân hủy. Từ trước tới nay, phần lớn hộ nông dân bón phân cho các loại cây công nghiệp chủ yếu theo kinh nghiệm, ít biết được về khoa học kỹ thuật tiến bộ, vì vậy một số cây công nghiệp bị hạn chế về năng suất cũng như chất lượng sản phẩm. Kết quả nghiên cứu về chăm bón cây trồng, các nhà khoa học cho thấy tiềm năng ứng dụng thực tế của phân NPK nhả chậm cho nhiều đối tượng cây trồng là rất cao. Hiện nay, các loại phân hóa học có giá ngày càng cao và yêu cầu bảo vệ môi trường trong canh tác ngày càng lớn, nên việc sử dụng loại phân NPK nhả chậm có hiệu quả, là nhu cầu cần thiết./. Ông Nguyễn Hạc Thúy - Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón: Sức tiêu thụ trong nước yếu và giá các loại phân bón trên thị trường thế giới giảm là nguyên nhân chính kéo giá phân đạm trong nước giảm xuống mức thấp trong một vài tháng tới..
Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dõi diễn biến thị trường phân bón trong và ngoài nước, chỉ đạo, đôn đốc các doanh nghiệp nhập khẩu đủ phân bón phục vụ kịp thời sản xuất nông nghiệp, nhất là vụ Đông Xuân 2010-2011. Đồng thời, chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất Việt Nam đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo nguồn phân bón phục vụ sản xuất, nhất là vụ Đông Xuân 2010-2011. Duy trì lượng tồn kho phân đạm Phú Mỹ ở mức tối thiểu 70.000 tấn urê Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo hướng dẫn, khuyến cáo nông dân sử dụng hợp lý các loại phân bón tổng hợp, phân bón NPK, phân bón vi sinh, phân bón hữu cơ; đẩy mạnh phong trào 3 tăng, 3 giảm 3 giảm: giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh, giảm lượng phân đạm; 3 tăng: tăng năng suất, tăng chất lượng và tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp để sử dụng tiết kiệm phân bón, tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chỉ đạo việc duy trì lượng tồn kho phân đạm Phú Mỹ ở mức tối thiểu khoảng 70 ngàn tấn Urê, nhằm can thiệp kịp thời thị trường khi có biến động; đồng thời tham gia nhập khẩu phân bón để điều hòa giá cả phân đạm trong nước.UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với các Bộ, ngành tăng cường chỉ đạo, kiểm tra các doanh nghiệp kinh doanh phân bón trên địa bàn về chất lượng, giá cả, phương thức bán hàng; phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi buôn bán phân bón giả, phân bón kém chất lượng, đầu cơ bán phá giá thị trường.Nam Anh. 1. Đặc tính và yêu cầu ngoại cảnh Cành quả của na thường mọc trên cành mẹ cành của năm trước. Trên tán cây phần từ giữa trở xuống cành cho quả tốt nhất. Mùa hoa nở nếu gặp hạn, nhiệt độ thấp, mưa nhiều thì đậu quả không tốt. Từ hoa nở đến quả chín trong khoảng 90 - 100 ngày. Na thích khí hậu ấm áp, kém chịu rét, không kén đất. Có thể trồng trên nhiều loại đất, nhưng mức nước ngầm sâu dưới 1 m, tầng đất dày trên 1 m. Đất cát sỏi, đất thịt nặng, đất vỏ sò hến đều trồng được na. Nói chung các loại na chịu khô hạn tốt, nhưng kém chịu úng, trừ cây bình bát nổi tiếng chịu ngập nước. Na rất thích hợp ở các loại đất phát triển trên đá vôi. Na không chịu chua, độ pH thích hợp là 6 - 7. Nếu trồng trên đất vùng đồi nên chọn loại có độ dốc < 150.="" có="" kinh="" nghiệm="" chọn="" đất="" sỏi="" cơm="" là="" tốt="" nhất.="" 2.="" kỹ="" thuật="" trồng="" 2.1.="" nhân="" giống="" -="" gieo="" hạt:="" chọn="" những="" quả="" phẩm="" chất="" tốt="" ở="" những="" cây="" có="" nhiều="" quả.="" chọn="" quả="" ở="" ngoài="" tán,="" quả="" chính="" vụ.="" trước="" khi="" gieo="" có="" thể="" đập="" nhẹ="" cho="" nứt="" vỏ="" hoặc="" lấy="" cát="" khô="" cho="" vào="" túi="" chà="" xát="" cho="" thủng="" vỏ="" để="" hạt="" nhanh="" nảy="" mầm.="" nhân="" giống="" bằng="" hạt="" sẽ="" có="" nhiều="" biến="" dị="" về="" các="" chỉ="" tiêu="" kinh="" tế="" như="" tỷ="" lệ="" đậu="" quả,="" tỷ="" lệ="" hạt="" vỏ="" và="" phần="" ăn="" được,="" phẩm="" chất="" quả…="" nên="" người="" ta="" thay="" thế="" bằng="" các="" phương="" pháp="" nhân="" giống="" vô="" tính="" như="" chiết="" cành,="" giâm="" cành,="" ghép.="" -="" phương="" pháp="" ghép:="" ghép="" mắt="" và="" ghép="" cành="" đều="" được.="" gốc="" ghép="" dùng="" cây="" gieo="" bằng="" hạt="" của="" nó,="" hay="" dùng="" cây="" bình="" bát,="" cây="" nê…="" khi="" đường="" kính="" cây="" đạt="" 8="" -="" 10="" mm="" là="" ghép="" được.="" mắt="" ghép="" lấy="" trên="" các="" cành="" đã="" rụng="" lá.="" nếu="" gỗ="" đủ="" già="" mà="" lá="" chưa="" rụng="" thì="" cắt="" phiến="" lá="" để="" lại="" cuống,="" 2="" tuần="" lễ="" sau="" cuống="" sẽ="" rụng="" và="" có="" thể="" lấy="" mắt="" để="" ghép.="" 2.2.="" trồng="" -="" thời="" vụ:="" hằng="" năm="" trồng="" 2="" vụ,="" vụ="" xuân="" tháng="" 2="" -="" 3,="" vụ="" thu="" tháng="" 8="" -="" 9.="" ở="" miền="" nam="" vào="" đầu="" mùa="" mưa="" tháng="" 4="" -="" 5.="" -="" hố="" trồng="" được="" đào="" rộng="" khoảng="" 0,5="" m,="" sâu="" 0,5="" m="" với="" khoảng="" cách="" 2="" x="" 3="" m,="" mật="" độ="" tương="" ứng="" 1.400="" -="" 1.600="" cây/ha,="" trung="" bình="" là="" 1.500="" cây/ha.="" có="" thể="" trồng="" xen="" vào="" chỗ="" trống="" trong="" vườn="" đã="" có="" cây="" ăn="" quả="" lâu="" năm.="" 3.="" bón="" phân="" npk-s="" lâm="" thao="" 3.1.="" bón="" lót="" hố="" được="" đào="" trước="" khi="" trồng="" 2="" -="" 3="" tháng.="" phân="" hữu="" cơ="" hoai="" mục="" thường="" bón="" 20="" -="" 30="" kg/hố,="" tương="" ứng="" 30="" -="" 45="" tấn/ha.="" bón="" 0,3="" -="" 0,4="" kg="" npk-s="" 5.10.3-8/hố,="" tương="" ứng="" 500="" -="" 600="" kg/ha.="" nếu="" đất="" chua="" bón="" mỗi="" hố="" 0,5="" kg="" vôi="" bột,="" tương="" ứng="" 750="" kg/ha.="" tất="" cả="" trộn="" với="" đất="" mặt,="" bỏ="" vào="" hố="" ủ="" 2="" -="" 3="" tháng="" mới="" đặt="" bầu.="" 3.2.="" bón="" phân="" thời="" kỳ="" kiến="" thiết="" cơ="" bản="" 1="" -="" 3="" năm="" tuổi="" -="" trong="" 1="" -="" 3="" năm="" đầu,="" hàng="" năm="" bón="" 4="" đợt,="" mỗi="" đợt="" cách="" nhau="" 3="" tháng,="" thường="" bón="" vào="" tháng="" 2="" -="" 3,="" 5="" -="" 6,="" 8="" -="" 9,="" 10="" -="" 11.="" nếu="" trời="" không="" mưa="" cần="" tưới="" đủ="" ẩm.="" bón="" cách="" gốc="" 40="" -="" 50="" cm="" theo="" 4="" hốc="" đối="" xứng="" đông-tây-nam-bắc="" hoặc="" theo="" hình="" chiếu="" tán="" nếu="" cây="" đã="" lớn.="" -="" sử="" dụng="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" để="" bón="" với="" liều="" lượng="" mỗi="" đợt="" đều="" bằng="" nhau="" như="" sau:="" đối="" với="" cây="" na="" 1="" tuổi="" thì="" bón="" 0,3="" kg/cây/đợt="" hay="" 1,2="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 450="" kg/ha/đợt="" và="" 1.800="" kg/ha/năm.="" đối="" với="" cây="" na="" 2="" -="" 3="" tuổi="" thì="" bón="" 0,6="" kg/cây/đợt="" hay="" 2,4="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 900="" kg/ha/đợt="" và="" 3.600="" kg/ha/năm.="" -="" năm="" thứ="" 2="" có="" thể="" kết="" hợp="" bón="" phân="" hữu="" cơ="" vào="" đợt="" bón="" thúc="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" cuối="" năm,="" liều="" lượng="" khoảng="" 20="" kg="" phân="" chuồng/cây="" tương="" đương="" 30="" tấn/ha.="" 3.3.="" bón="" phân="" thời="" kỳ="" kinh="" doanh="" -="" trong="" thời="" kỳ="" kinh="" doanh,="" mỗi="" năm="" thường="" bón="" 3="" đợt:="" trước="" ra="" hoa,="" vào="" tháng="" 2="" -="" 3.="" khi="" đã="" có="" quả="" non="" để="" nuôi="" cành,="" nuôi="" quả="" vào="" tháng="" 6="" -="" 7.="" sau="" khi="" thu="" quả="" kết="" hợp="" với="" vun="" gốc="" vào="" tháng="" 9="" -="" 10.="" -="" sử="" dụng="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" để="" bón="" với="" liều="" lượng="" mỗi="" đợt="" bằng="" nhau="" như="" sau:="" đối="" với="" cây="" na="" 4="" -="" 5="" tuổi="" thì="" bón="" 1,5="" kg/cây/đợt="" hay="" 4,5="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 2.250="" kg/ha/đợt="" và="" 6.750="" kg/ha/năm.="" đối="" với="" cây="" na="" 6="" -="" 7="" tuổi="" thì="" bón="" 2,0="" kg/cây/đợt="" hay="" 6,0="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 3.000="" kg/ha/đợt="" và="" 9.000="" kg/ha/năm.="" đối="" với="" cây="" na="" trên="" 8="" tuổi="" thì="" bón="" 2,5="" kg/cây/đợt="" hay="" 7,5="" kg/cây/năm="" tương="" đương="" 3.750="" kg/ha/đợt="" và="" 11.250="" kg/ha/năm.="" -="" cứ="" cách="" 2="" năm="" bón="" 1="" lần="" phân="" hữu="" cơ="" vào="" đợt="" bón="" thúc="" phân="" npk-s="" 12.5.10-14="" sau="" khi="" thu="" quả,="" liều="" lượng="" 20="" -="" 30="" kg/cây="" tương="" đương="" 30="" -="" 45="" tấn/ha.="" -="" phân="" bón="" được="" bón="" theo="" hình="" chiếu="" tán,="" đào="" 4="" hốc="" đối="" xứng="" nam-bắc,="" đông-tây="" hay="" cuốc="" rãnh="" hình="" vành="" khăn,="" bỏ="" phân="" vào="" hố="" hoặc="" rãnh,="" lấp="" kín,="" tủ="" gốc="" bằng="" cỏ="" khô,="" lá="" khô="" để="" tạo="" ẩm.="" 4.="" thu="" hoạch="" -="" thu="" làm="" nhiều="" đợt="" khi="" quả="" đã="" mở="" mắt,="" vỏ="" quả="" chuyển="" màu="" vàng="" xanh,="" hái="" quả="" kèm="" theo="" 1="" đoạn="" cuống="" đem="" về="" dấm="" trong="" vài="" ba="" ngày="" quả="" mềm="" là="" ăn="" được.="" -="" mùa="" na="" chín="" từ="" tháng="" 6="" đến="" tháng="" 9,="" ở="" miền="" nam="" thu="" hoạch="" sớm="" hơn="" miền="" bắc.="" chúc="" bà="" con="" trồng="" na="" sử="" dụng="" phân="" bón="" npk-s="" lâm="" thao="" áp="" dụng="" thành="" công="" một="" số="" biện="" pháp="" kỹ="" thuật,="" trong="" đó="" có="" sử="" dụng="" các="" loại="" phân="" bón="" npk-s="" để="" thu="" được="" năng="" suất="" và="" chất="" lượng="" quả="" na="" cao,="" đáp="" ứng="" nhu="" cầu="" của="" người="" tiêu="" dùng="" trong="" và="" ngoài="" nước.="" kết="" quả,="" có="" 48="" bao="" phân="" bón="" npk="" do="" bà="" n.t.t,="" ở="" p.trần="" quang="" diệu,="" tp.quy="" nhơn="" bình="" định="" cung="" cấp,="" khi="" hòa="" tan="" phân="" npk="" trong="" nước,="" xuất="" hiện="" đất="" vón="" cục="" và="" cát="" ảnh.="" các="" hộ="" dân="" cho="" biết,="" khi="" bón="" thúc="" cho="" dưa="" hơn="" 30="" ngày="" tuổi="" thì="" phát="" hiện="" phân="" giả="" vì="" dưa="" không="" phát="" triển,="" èo="" uột,="" năng="" suất="" ước="" chỉ="" bằng="" khoảng="" 1/5="" so="" với="" dùng="" phân="" bón="" thật.="" địa="" phương="" đã="" kiến="" nghị="" lên="" ubnd="" huyện="" và="" các="" ngành="" chức="" năng="" điều="" tra="" làm="" rõ="" vụ="" phân="" bón="" giả="" này.="" sau="" khi="" tiến="" hành="" xác="" minh="" các="" hồ="" sơ="" liên="" quan="" và="" kiểm="" tra="" thực="" tế="" tại="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng,="" báo="" nnvn="" xin="" nói="" lại="" cho="" rõ="" như="" sau.="" con="" cò="" vàng="" không="" sai="" phạm="" theo="" xác="" minh="" của="" nnvn,="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng="" được="" sở="" kế="" hoạch="" -="" đầu="" tư="" tphcm="" cấp="" giấy="" chứng="" nhận="" đăng="" ký="" doanh="" nghiệp="" số="" 0305995751="" ngày="" 11/9/2008.="" đồng="" thời,="" logo="" con="" cò="" vàng,="" chất="" lượng="" vàng,="" cùng="" nhà="" nông="" làm="" giàu="" được="" cục="" bản="" quyền="" tác="" giả="" cấp="" chứng="" nhận="" đăng="" ký="" quyền="" tác="" giả="" số="" 2159/2010/qtg="" ngày="" 19/7/2010="" do="" bà="" nguyễn="" kim="" thoa="" là="" tác="" giả,="" chủ="" sở="" hữu="" là="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng.="" như="" vậy,="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng="" có="" đầy="" đủ="" tính="" pháp="" lý="" và="" hoạt="" động="" theo="" đúng="" pháp="" luật="" vn.="" xác="" minh="" thực="" tế="" cũng="" cho="" thấy,="" cty="" con="" cò="" vàng="" có="" đầy="" đủ="" năng="" lực="" về="" tài="" chính,="" cơ="" sở="" hợp="" quy,="" phân="" bón="" npk="" vật="" chất="" với="" các="" địa="" chỉ="" như="" sau:="" trụ="" sở="" chính="" số="" 23="" lô="" b,="" đường="" số="" 1,="" p.phú="" thuận,="" q.7,="" tphcm;="" văn="" phòng="" đại="" diện="" tại="" villas="" kl="" 21,="" đường="" nguyễn="" hữu="" thọ,="" p.phước="" kiểng,="" h.nhà="" bè,="" tphcm;="" nhà="" máy="" con="" cò="" vàng="" nhị="" xuân="" 1="" ha;="" nhà="" máy="" con="" cò="" vàng="" bảo="" lộc="" 4="" ha;="" nhà="" máy="" con="" cò="" vàng="" hóc="" môn.="" đặc="" biệt="" là="" nhà="" máy="" con="" cò="" vàng="" nằm="" trong="" kcn="" gò="" dầu="" huyện="" long="" thành,="" đồng="" nai="" có="" tổng="" diện="" tích="" 11="" ha="" một="" trong="" những="" nhà="" máy="" phân="" bón="" lớn="" nhất="" vn,="" được="" trang="" bị="" dây="" chuyền="" máy="" móc="" hiện="" đại="" của="" nước="" ngoài="" với="" công="" suất="" lên="" tới="" 1="" triệu="" tấn="" sản="" phẩm/năm.="" toàn="" bộ="" mặt="" bằng,="" máy="" móc,="" trang="" thiết="" bị="" phục="" vụ="" cho="" việc="" sản="" xuất="" kinh="" doanh="" đều="" thuộc="" quyền="" sở="" dụng,="" sở="" hữu="" của="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng.="" cơ="" sở="" vật="" chất="" khang="" trang="" thuộc="" quyền="" sở="" hữu="" của="" con="" cò="" vàng="" liên="" quan="" đến="" tên="" gọi="" con="" cò="" vàng,="" một="" đại="" diện="" cty="" nói:="" ông="" bà="" ta="" thường="" nhắc="" cây="" có="" cội,="" nước="" có="" nguồn”,="" con="" người="" ta="" ai="" cũng="" có="" nguồn="" gốc.="" tiền="" thân="" của="" phân="" bón="" con="" cò="" vàng="" là="" phân="" bón="" con="" nai="" vàng="" được="" thành="" lập="" trước="" năm="" 1975="" với="" tên="" gọi="" hãng="" phân="" bón="" vn.="" sau="" giải="" phóng,="" nhà="" nước="" tiếp="" nhận="" và="" phát="" triển="" liên="" tục="" từ="" đó="" đến="" nay.="" thương="" hiệu="" con="" nai="" vàng="" do="" tổng="" giám="" đốc="" nguyễn="" kim="" thoa="" xây="" dựng="" nên,="" thương="" hiệu="" con="" cò="" vàng="" đã="" kế="" thừa="" thương="" hiệu="" con="" nai="" vàng.="" vì="" vậy,="" khi="" nói="" về="" nguồn="" gốc,="" cội="" nguồn,="" tiền="" thân="" của="" phân="" bón="" con="" cò="" vàng="" là="" phân="" bón="" con="" nai="" vàng="" được="" thành="" lập="" trước="" năm="" 1975="" là="" hoàn="" toàn="" hợp="" lý.="" riêng="" về="" logo,="" cty="" baconco="" với="" logo="" là="" con="" cò="" đứng="" 1="" chân="" với="" nền="" màu="" xanh="" làm="" chủ="" đạo,="" không="" có="" bất="" cứ="" điểm="" gì="" giống="" với="" logo="" 3="" con="" cò="" bay="" với="" nền="" màu="" vàng="" làm="" chủ="" đạo="" của="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng.="" đặc="" biệt,="" trong="" các="" năm="" 2011,="" 2012,="" 2013,="" không="" có="" bằng="" chứng="" nào="" cho="" thấy="" sản="" phẩm="" của="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng="" bị="" xử="" phạt="" tại="" các="" tỉnh="" tây="" ninh,="" gia="" lai="" và="" đồng="" nai.="" nông="" dân="" yên="" tâm="" sử="" dụng="" cũng="" theo="" hồ="" sơ="" và="" thực="" tế="" xác="" minh,="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng="" tham="" gia="" thị="" trường="" phân="" bón="" phục="" vụ="" nông="" nghiệp="" với="" trên="" 160="" loại="" sản="" phẩm="" và="" là="" một="" trong="" những="" đơn="" vị="" đi="" tiên="" phong="" trong="" việc="" bảo="" hành="" chất="" lượng="" sản="" phẩm="" cho="" nhà="" nông,="" từ="" khi="" sản="" xuất="" đến="" khi="" tiêu="" thụ.="" cụ="" thể,="" cty="" hướng="" dẫn="" cho="" nhà="" nông="" sử="" dụng="" 4="" đúng”="" đúng="" loại,="" đúng="" liều,="" đúng="" lúc,="" đúng="" cách="" và="" cam="" kết="" với="" nhà="" nông="" khi="" sử="" dụng="" phân="" bón="" con="" cò="" vàng="" chỉ="" khi="" nào="" năng="" suất="" và="" chất="" lượng="" nông="" sản="" tăng,="" lúc="" đó="" cty="" mới="" cho="" phép="" mình="" hoàn="" thành="" quy="" trình="" sản="" xuất.="" với="" phương="" châm="" này,="" cty="" con="" cò="" vàng="" đã="" tạo="" ra="" uy="" tín,="" lòng="" tin="" của="" xã="" hội,="" của="" nhà="" nông="" đối="" với="" các="" sản="" phẩm="" của="" mình.="" bằng="" chứng="" là="" những="" năm="" qua,="" con="" cò="" vàng="" –="" con="" nai="" vàng="" đã="" nhận="" được="" hàng="" chục="" giải="" thưởng="" lớn,="" trong="" đó="" có="" thể="" kể="" đến="" là:="" thương="" hiệu="" nổi="" tiếng="" asean”,="" hàng="" chất="" lượng="" cao="" tiêu="" chuẩn="" quốc="" tế”,="" cúp="" bông="" lúa="" vàng="" vn”,="" thương="" hiệu="" việt="" vì="" người="" việt”,="" top="" 100="" sản="" phẩm="" và="" dịch="" vụ="" vàng="" thời="" hội="" nhập”,="" top="" 100="" nhà="" cung="" cấp="" đáng="" tin="" cậy="" vn”,="" giấy="" chứng="" nhận="" hội="" viên="" của="" hiệp="" hội="" chống="" hàng="" giả="" và="" bảo="" vệ="" thương="" hiệu="" vn”…="" thậm="" chí,="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng="" còn="" được="" unesco="" tổ="" chức="" giáo="" dục,="" khoa="" học="" và="" văn="" hóa="" của="" liên="" hiệp="" quốc="" trao="" cho="" bảng="" vàng="" doanh="" nghiệp="" văn="" hóa”="" và="" đồng="" hành="" cùng="" diễn="" đàn="" thanh="" tra="" bộ="" nn-ptnt”.="" đặc="" biệt,="" cá="" nhân="" bà="" nguyễn="" kim="" thoa="" –="" tổng="" giám="" đốc="" cty="" tnhh="" con="" cò="" vàng="" với="" trên="" 20="" năm="" gắn="" bó="" với="" ngành="" phân="" bón="" và="" đồng="" hành="" cùng="" nhà="" nông,="" đã="" được="" bà="" con="" nông="" dân="" yêu="" quý="" và="" tin="" tưởng.="" ngoài="" hoạt="" động="" sản="" xuất="" kinh="" doanh,="" bà="" còn="" tham="" gia="" rất="" nhiều="" hoạt="" động="" từ="" thiện="" xã="" hội="" như:="" nuôi="" 2="" mẹ="" già="" neo="" đơn="" ở="" thanh="" hóa="" và="" nghệ="" an;="" đồng="" hành="" cùng="" mái="" ấm="" atv="" xây="" dựng="" nhà="" từ="" thiện="" cho="" người="" nghèo;="" đóng="" góp="" cho="" quỹ="" trẻ="" em="" nghèo="" hiếu="" học,="" nâng="" bước="" trẻ="" đến="" trường;="" giúp="" đỡ="" việt="" kiều="" nghèo="" trên="" sông="" mekong="" và="" người="" nghèo="" tại="" lào;="" đóng="" góp="" xây="" chùa="" để="" nuôi="" dưỡng="" trẻ="" em="" mồ="" côi="" tại="" vĩnh="" long,="" trà="" vinh…="" ghi="" nhận="" những="" đóng="" góp="" trên,="" bà="" nguyễn="" kim="" thoa="" đã="" được="" nhiều="" tổ="" chức="" xã="" hội,="" gia="" đình,="" bạn="" bè="" và="" đồng="" nghiệp="" phong="" tặng="" nhiều="" danh="" hiệu.="" trong="" đó,="" vinh="" dự="" lớn="" của="" bà="" là="" được="" trao="" tặng="" doanh="" nhân="" tâm="" –="" tài="" asean”="" và="" huy="" chương="" hồ="" chí="" minh”="" cao="">


chung nhan hop quy phan bon Nguyên nhân là 2 doanh nghiệp trên đã vi phạm quy định về quản lý chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất, gia công phân bón. X.N Thu phí cầu Bến Thủy II để mở rộng QL1A. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn hẹp, Bộ GTVT đã giao Cienco 4 là nhà đầu tư thực hiện dự án nâng cấp, mở rộng QL1A đoạn nam cầu Bến Thủy II đến TP.Hà Tĩnh theo hình thức BOT. Theo đó, trong thời gian bắt đầu triển khai dự án, Cienco 4 sẽ thu phí cầu Bến Thủy II để mở rộng QL1A. Theo ông Lê Ngọc Hoa - Tổng Giám đốc TCty Xây dựng công trình giao thông 4 Cienco 4, từ nay đến hết năm 2014, trong thời gian xây dựng Cienco 4 sẽ thu mức 15 nghìn đồng/1CPU phương tiện giao thông quy đổi, sau khi hoàn thành dự án năm 2014 đến 2016, Cienco 4 sẽ nâng lên 1 lần, thu 20 nghìn đồng, tăng 5 nghìn đồng so với hiện nay. H.Nguyên Gia Lai: Xử phạt hơn 611 triệu đồng các đơn vị sai phạm thị trường. Trong tháng 9, Chi cục QLTT tỉnh Gia Lai đã tiến hành 288 đợt kiểm tra, xử lý các sai phạm trên thị trường, thu về hơn 611 triệu đồng. Các sai phạm chủ yếu rơi vào lĩnh vực giá, quy định ghi nhãn hàng hóa... Ông Nguyễn Văn Tấn - Chi Cục trưởng Chi cục QLTT tỉnh - cho biết: Những tháng cuối năm chúng tôi sẽ triển khai kiểm tra và phối hợp với các lực lượng liên ngành nhiều hơn, nhất là khâu vệ sinh an toàn thực phẩm, chống dịch ở các trung tâm thương mại, chợ đầu mối...”. Lê Đình Dũng Vẫn hỗ trợ 1 triệu đồng khi mua máy nước nóng. Dù Tập đoàn Điện lực VN EVN tạm dừng việc hỗ trợ 1 triệu đồng khi mua máy nước nóng năng lượng mặt trời trong 3 tháng cuối năm 2012, chương trình này sẽ vẫn tiếp tục được triển khai tại nhiều khu vực. Bộ Công Thương, TCty Điện lực Miền Bắc và TCty Điện lực Hà Nội vừa lựa chọn Tập đoàn Tân Á Đại Thành làm nhà cung cấp chính thức duy nhất trong Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả”. Người tiêu dùng khi mua sản phẩm máy nước nóng năng lượng mặt trời tại bất kỳ kênh bán hàng nào của tập đoàn hoặc các điểm giao dịch điện lực tại Hà Nội, Bắc Giang, Nam Định, Quảng Ninh, Thái Nguyên và Sơn La sẽ tiếp tục được hỗ trợ trực tiếp 1 triệu đồng/sản phẩm từ ngân sách của Bộ Công Thương. C.Văn Lâm Đồng: Hồng trái rớt giá chỉ còn 1.000 đồng/kg. Ngày 2.10, giá hồng trái – một đặc sản Đà Lạt, một trong 50 loại trái cây đặc sản của VN vừa được Trung tâm Sách và Kỷ lục VN bình chọn – chỉ còn 1.000 đồng/kg. Đây là mức giá thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Cũng trong 10 năm qua, giá loại trái cây đặc sản này của Đà Lạt và bây giờ là của VN liên tục rớt giá, từ trên 25.000 đồng/kg năm 2001 xuống còn 1.000 đồng hiện nay. Do giá hồng ăn trái giảm mạnh nên hiện cả tỉnh Lâm Đồng chỉ còn khoảng 2.000ha, giảm 500ha so với cách nay 10 năm. K.D Áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão. Theo TT Dự báo khí tượng thủy văn T.Ư, áp thấp nhiệt đới trên biển Đông đã mạnh dần lên thành bão với cường độ ngày càng mạnh hơn. Chiều 2.10, vị trí tâm bão cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 380km về phía đông đông nam, sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8, giật cấp 9 - 10. Hôm nay và ngày mai, bão di chuyển chậm theo hướng đông nam, tốc độ 5km/h, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 420km về phía đông nam, gió giật cấp 10 - 11. Do ảnh hưởng của bão, vùng biển phía đông quần đảo Hoàng Sa có gió mạnh cấp 6 - 7, vùng gần tâm bão đi qua cấp 8 - 9, giật cấp 10 - 11, biển động rất mạnh. Theo báo cáo nhanh của bộ đội biên phòng, đến chiều qua 2.10 đã thông báo và hướng dẫn cho hơn 41.000 tàu thuyền với gần 208.000 lao động hoạt động trên biển biết vị trí và hướng di chuyển của bão để chủ động phòng tránh. D.H. Hạt bí xanh có thể nẩy mầm ở nhiệt độ 10 - 15 độ C, nhưng thích hợp nhất là 25 độ C. Ở giai đoạn cây con vườn ươm cây bí xanh yêu cầu nhiệt độ từ 20 - 22 độ C. Nhiệt độ thích hợp nhất để cây bí xanh sinh trưởng và phát triển tốt là 25 - 27 độ C. Bí xanh có các chủng loại như bí Trạch, bí Bầu, bí Lông. Yêu cầu về đất và dinh dưỡng Có thể trồng bí xanh trên nhiều loại đất, tốt nhất là đất phù sa, thịt nhẹ, pH = 6,5 - 8,0. Cây bí xanh yêu cầu độ ẩm đất ở thời kỳ từ cây con đến ra hoa là 65 - 70%, ở thời kỳ ra hoa kết quả là 70 - 80%. Bí xanh chịu úng kém, khi gặp độ ẩm lớn do mưa nhiều hoặc do tưới không hợp lý thì sẽ bị vàng lá, rụng hoa, rụng quả, ảnh hưởng xấu đến năng suất. Sử dụng NPK-S Lâm Thao bón cho bí xanh hiệu quả Thời vụ và kỹ thuật trồng Có ba thời vụ: Xuân hè, hè thu và vụ đông sớm. Vụ xuân hè gieo hạt từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Xử lý hạt bằng nước nóng 40 - 45 độ C trong thời gian khoảng từ 2 - 3 giờ đến 10 - 12 giờ; khi hạt nứt nanh thì đêm gieo vào bầu ươm. Khi cây có 1 - 2 lá thật thì đem trồng vào hốc ngoài đồng ruộng. Vụ hè thu gieo trồng từ tháng 4, tháng 5 hoặc sau khi gặt lúa xuân. Vụ đông sớm gieo hạt vào bầu, trồng bầu ra ruộng ngay sau khi gặt lúa mùa vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng 10. Làm đất, lên luống cao 20 cm nếu trồng vụ hè thu hoặc xuân hè muộn có mưa rào nhiều thì lên luống cao 25 - 35 cm, rãnh luống rộng 30 cm, mặt luống rộng 1,2 - 1,3 m nếu làm giàn. Trồng 2 hàng dọc theo luống, hàng cách hàng 60 cm, hốc cách hốc 40 - 50 cm. Các hốc phân bố trên luống theo kiểu nanh sấu. Mỗi hốc trồng 1 cây, tương ứng với mật độ 20 - 25 nghìn cây/ha. Nếu không làm giàn, để cây bò trên mặt luống thì lên luống rộng 3,5 m; trồng 2 hàng giữa luống, cách mép luống 15 - 20 cm, hàng cách hàng 2,5 - 3,0 m, hốc cách hốc 40 - 50 cm. Để cho bí xanh bò trên mặt luống và để đỡ quả thì cần có rơm, rạ phủ trên mặt luống. Đào hốc, bón phân lót, trộn đều với đất, phủ lớp đất mỏng lên trên rồi trồng, tưới nước duy trì đủ độ ẩm cho cây con. Khi thân cây bí bò ra dài 50 cm thì lấp đất lên các vị trí các đốt, cứ cách 1 - 2 đốt lại lấp đất lên 1 đốt để cây ra nhiều rễ bất định, hướng cho ngọn bí bò từ hốc này sang hốc kia. Sau đó mới nương dây cho bí bò lên giàn, buộc thân cây bí vào giàn bằng lạt mềm hoặc bằng rơm rạ, buộc ở vị trí dưới nách lá. Sử dụng phân bón Lâm Thao NPK-S cho cây bí xanh Bón phân cho bí xanh vào các thời kỳ sau: Bón lót - trước khi trồng; Bón thúc lần 1 khi cây con có 5 - 7 lá thật; Bón thúc lần 2 khi cây chuẩn bị ra hoa, sau khi cây ra tua, buộc cây vào dàn; Bón thúc lần 3 khi cây hình thành quả. Lượng phân bón tính trên 1 ha như sau: - Bón lót: 20 - 25 tấn phân chuồng hoai ; 420 - 500 kg phân NPK-S: 5.10.3-8 - Bón thúc 1, 2, 3 mỗi lần bón 280 - 310 kg phân NPK-S: 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10.5 Lượng phân bón tính trên 1 sào Bắc bộ 360 m2 như sau: - Bón lót: 720 - 900 kg phân chuồng hoai ; 15 - 18 kg phân NPK-S: 5.10.3-8 - Bón thúc 1, 2, 3 mỗi lần bón 10 - 11 kg phân NPK-S: 12.5.10-14 hoặc NPK-S 10.5.10.5. Phát biểu tại buổi lễ, ông Trần Anh, TGĐ Cty cho biết, công nghệ urê hóa lỏng là công nghệ tân tiến, hiện đại, cho phép sản xuất các công thức phân bón có hàm lượng dinh dưỡng cao, phân bón đặc chủng đa yếu tố cho từng loại cây trồng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp hiện đại. Đặc biệt với tính chất tan nhanh, cây trồng dễ hấp thụ, hop quy, phan bon npk giảm thất thoát dinh dưỡng do điều kiện thời tiết gây ra, giảm hàm lượng lưu huỳnh trong phân nhằm làm giảm độ chua của đất. Dự kiến đến tháng 6/2014, nhà máy sẽ đi vào sản xuất, tạo công ăn việc làm cho 150 lao động tại chỗ. PVFCCo SE và TTKNKN tỉnh Bình Phước đã tổ chức đưa bà con nông dân đi tham quan mô hình trình diễn phân bón NPK 16-16-8+13S Phú Mỹ trên cây tiêu, trình bày cách thức triển khai thực hiện mô hình, đánh giá các tiêu chí về nông học giữa hai nghiệm thức trình diễn NPK 16-16-8+13S với nghiệm thức đối chứng, cụ thể như: i ưu điểm nghiệm thức trình diễn, bản lá dày, đọt non ra đều – tập trung, hoa ra nhiều – đồng loạt, phát hoa vươn dài, trái đóng đông đặc hơn, trái to bóng hơn so với nghiệm thức đối chứng ii việc đầu tư phân bón NPK 16-16-8+13S Phú Mỹ trên cây hồ tiêu kết hợp với biện pháp canh tác theo nghiệm thức trình diễn giúp tăng năng suất trên 6% và giúp tăng lợi nhuận thêm trên 60 triệu đồng/ha so với cách canh tác theo phương pháp truyền thống của bà con nông dân giá tiêu tính theo thời điểm thu hoạch. XUÂN HẠ ..
Cty CP Phân bón Bình Điền là đơn vị có doanh thu lớn nhất của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Nhà máy phân bón NPK Bình Điền – Ninh Bình đi vào hoạt động sẽ nâng sản lượng của Cty lên 1,5 triệu tấn/năm, trong tổng số trên 3 triệu tấn phân bón NPK của toàn Tập đoàn. Dự án Bình Điền – Ninh Bình là 1 trong 7 dự án sẽ được Tập đoàn Hóa chất triển khai xây dựng trong những năm tới, hướng đến cung cấp đủ nhu cầu phân bón trong nước và phục vụ xuất khẩu, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới. Ông Nguyễn Đình Khang – Tổng Giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Theo số liệu của Vụ Thương mại biên giới và miền núi Bộ Công thương, trong những năm qua, mặt hàng phân bón được nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc qua các cửa khẩu phụ, lối mở trên tuyến biên giới Việt - Trung. Trong đó, cửa khẩu phụ Bản Vược Bát Xát - Lào Cai chiếm hơn 90% lượng phân bón nhập khẩu theo đường biên mậu, chủ yếu là phân DAP, urê và một số loại trong nước chưa sản xuất được như MAP, SA, Kali. Thống kê của Bộ Công thương cho thấy, lượng phân bón nhập khẩu biên mậu qua từng năm cũng tăng đáng kể. Nếu như 2010 chỉ có 80.000 tấn thì 2011 tăng lên 362.000 tấn, sang đến 2012 đạt 560.000 tấn và trong 4 tháng đầu năm 2013 đã nhập khoảng 200.000 tấn. Chia sẻ với chúng tôi, các DN SX urê, DAP trong nước cho biết, việc mặt hàng phân bón của Trung Quốc nhập qua đường tiểu ngạch, không phải chịu bất cứ loại thuế quan nào đang cạnh tranh không lành mạnh với DN nội địa. Bốc dỡ đạm urê cho khách hàng tại Nhà máy Đạm Ninh Bình Trước các đề xuất chính đáng của DN SX phân bón trong nước, Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước Võ Văn Quyền nhấn mạnh, sắp tới Bộ Công thương sẽ có những thay đổi mạnh mẽ các cơ chế, chính sách nhằm giảm dần lượng phân nhập khẩu. Đặc biệt, đối với những loại phân bón trong nước đã sản xuất được, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, Bộ Công thương sẽ hạn chế hoặc tạm dừng nhập biên mậu qua các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới theo từng thời điểm. Theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam, giá phân urê trên thị trường thế giới có thể đã gần chạm đáy sau một thời gian dài trượt dốc. Một số nhà kinh doanh từ Nam Mỹ quay lại thị trường và mua vào với suy nghĩ giá gần chạm đáy. Giá chào phân urê cao hơn được ghi nhận tại Trung Đông cho hàng hạt đục và hạt trong tại Ai Cập ở mức 352-360 USD/tấn. Thị trường Mỹ cũng rục rịch muốn dò đáy của phân đạm. Ấn Độ đang mua thêm hàng và có thể may mắn tìm được mức giá thấp hơn ít nữa. Tuy nhiên, điều này phần lớn tùy vào thỏa thuận giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Tại Việt Nam, các nhà nhập phân bón đang quan tâm khi urê Trung Quốc bao bì tiếng Anh chào ở mức trên 330 USD/tấn. Đối với hàng bao bì tiếng Trung Quốc, giá chốt thấp hơn một chút. Thị trường urê trong nước vẫn khá vững về nguồn cung khi đạm Phú Mỹ và đạm Cà Mau không thiếu hàng. Lượng hàng urê nhập trong tháng 5 tổng cộng khoảng 33.563 tấn, trong đó trên 28.000 tấn từ Trung Quốc. Được biết, đối với loại phân bón trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất được nhưng chưa đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa, Bộ Công thương sẽ tiếp tục cho phép nhập theo từng lô hàng và có thời gian xác định để có thể kiếm soát số lượng phân bón qua đường biên mậu, không ảnh hưởng tới cung cầu trong nước. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, lượng phân bón SA nhập trong tháng 5 gần 100.000 tấn, trong đó từ Trung Quốc khoảng 66.000 tấn, Nhật 20.000 tấn. Lượng phân AN Ammonium Nitrat nhập trong tháng 5 khoảng 11.600 tấn, tất cả đều từ Trung Quốc. Về thị trường DAP và NPK, phân bón DAP thế giới từ ổn định đến yếu nhẹ. Giá phân DAP chào từ Mỹ giao động từ 465-475 USD/tấn. Giá phân DAP và phân NPK trong nước bình ổn. Một số nhà sản xuất NPK lớn trong nước phàn nàn tình hình kinh doanh không thuận lợi, có lẽ do nguồn cung gia tăng từ các nhà máy phân NPK nhỏ lẻ hiện hữu trong khi nhu cầu phân NPK lại thấp hơn mức bình thường. Sản xuất DAP tại Nhà máy DAP Đình Vũ Số liệu giao dịch trong tháng 5 cho thấy, lượng phân DAP nhập trong tháng 5 xấp xỉ 92.000 tấn, gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Nguồn cung ứng chính là từ Trung Quốc, khoảng 67.000 tấn, Nga 17.000 tấn. Tổng lượng nhập phân DAP trong 5 tháng đầu năm lên tới 340.088 tấn, cao hơn cùng kỳ năm 2012 khoảng 81%. Trong số các thị trường cung cấp mặt hàng phân bón cho Việt Nam, Trung Quốc vẫn là thị trường chính, chiếm 41,9% tổng lượng phân bón nhập khẩu, tương đương với 638.000 tấn. Bắt đầu từ ngày hôm nay 6/8, giá phân bón NPK sẽ giảm 200.000đ/tấn và trước đó, từ 2/8, giá supe lân đã giảm 100.000đ/tấn. CôngThương - Đây là những thông tin tích cực vừa được ông Nguyễn Duy Khuyến- Tổng giám đốc Công ty cổ phần supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao đưa ra. Riêng với các kho tập trung tại thị trường phía Nam, giá supe lân sẽ được hỗ trợ giảm thêm 80.000đ/tấn, tổng cộng giảm xuống 180.000đ/tấn. Trong bối cảnh phân bón vẫn đang tăng giá ở một số tỉnh thành, nhất là tại Tây Nguyên, do bắt đầu bước vào mùa mưa, nhu cầu sử dụng phân bón cho cây trồng đang tăng mạnh nên nhiều loại phân bón đua nhau tăng giá, gây khó khăn không nhỏ cho bà con nông dân, thì đây là một tín hiệu đáng mừng, góp phần bình ổn và giảm nhiệt cho thị trường phân bón. Mặc dù chịu sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm phân bón cùng loại trong nước cũng như nhập khẩu, sản xuất phân bón chịu ảnh hưởng trực tiếp mùa vụ nông nghiệp chủ yếu là vụ đông xuân và hè thu… nhưng Công ty cổ phần supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao vẫn ổn định sản xuất. Trong 6 tháng đầu năm, công ty đã tiêu thụ trên 256.000 tấn supe lân, hơn 468.000 tấn NPK, 3.300 tấn axít sunphuríc, trên 27.200 tấn lân nung chảy, đạt doanh thu trên 3.100 tỷ đồng, đảm bảo việc làm ổn định cho 2.850 người với mức thu nhập bình quân 7,6 triệu đồng/người/tháng. Được biết, việc Hợp quy, phân bón npk giảm giá phân bón này cũng không ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận 380 tỷ đồng mà công ty đặt ra trong năm nay. Kết quả, có 48 bao phân bón NPK do bà N.T.T, ở P.Trần Quang Diệu, TP.Quy Nhơn Bình Định cung cấp, khi hòa tan phân NPK trong nước, xuất hiện đất vón cục và cát ảnh. Các hộ dân cho biết, khi bón thúc cho dưa hơn 30 ngày tuổi thì phát hiện phân giả vì dưa không phát triển, èo uột, năng suất ước chỉ bằng khoảng 1/5 so với dùng phân bón thật. Địa phương đã kiến nghị lên UBND huyện và các ngành chức năng điều tra làm rõ vụ phân bón giả này.

.

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

Giá phân bón trong hợp quy nước tiếp tục ổn định.


Chứng nhận Vietgap chăn nuôi  Hướng dẫn bón hợp quy phân cho lúa hè thu ở ĐBSCL


I. Hợp quy phụ gia thực phẩm  NPK giả tuồn hợp quy lên vùng cao


Theo bà Lê Thị Phi Vân, Bộ môn Thể chế nông thôn Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn IPSARD, thị trường phân bón còn độc quyền. Nếu phá thế độc quyền đi là hết. Hiện thị trường phân bón tập trung chủ yếu dẫn dắt bởi một số nhà sản xuất lớn đạm Phú Mỹ, đạm Cà Mau, đạm Hà Bắc. Phân đạm sản xuất trong nước đang dư thừa, chỉ có kali phải nhập khẩu. DAP sản xuất trong nước cũng đã đáp ứng hơn 50% nhu cầu. Phân đạm đang dư thừa nhưng thực tế giá cứ tăng vì các nhà máy mới với công suất lớn đều nằm trong tay các tập đoàn lớn. Thực ra, chỉ có 2 tập đoàn là Petrolimex và Vinachem đạm Hà Bắc và đạm Ninh Bình thuộc Vinachem, còn Phú Mỹ và Cà Mau thuộc Petrolimex. Cho nên về bản chất chỉ có 2 nhà phân phối chia nhau thị phần không có cạnh tranh. Mạng lưới phân phối đều rơi vào tay các ông lớn, chi phối về giá cả. Cũng vì vậy nên giá phân bón luôn cao, không có lợi cho nông dân. Tạo được nhiều kênh phân phối để phá thế độc quyền này thì giá phân bón sẽ giảm. Đáp ứng 68% nhu cầu vẫn bất ổnTheo Bộ Công thương, lượng phân bón hóa học các loại sản xuất trong nước vào khoảng 6,2 triệu tấn, đáp ứng 68% nhu cầu các loại cây trồng. Nhưng nếu đi vào từng mặt hàng cụ thể lại có tỷ lệ khác nhau, 2 mặt hàng trong nước có thể đáp ứng nhu cầu là phân lân 2 triệu tấn/năm và NPK 3 triệu tấn/năm. Phân đạm urê đáp ứng khoảng 54% gần 1 triệu tấn/năm, trong đó, Nhà máy Đạm Phú Mỹ thuộc Tổng Công ty Phân bón và hóa chất dầu khí cung cấp 40%, khoảng 800.000 tấn/năm, còn lại Nhà máy Đạm Hà Bắc khoảng 180.000 tấn/năm. Cuối năm 2012, khi Nhà máy Đạm Cà Mau với công suất thiết kế 800.000 tấn/năm và Nhà máy Đạm Ninh Bình 560.000 tấn/năm đi vào hoạt động, nhu cầu urê trong nước cũng sẽ được đảm bảo. Với phân DAP, Nhà máy sản xuất DAP số 1 tại TP Hải Phòng công suất 330.000 tấn/năm đáp ứng khoảng 35% nhu cầu trong nước, Nhà máy DAP số 2 330.000 tấn tại tỉnh Lào Cai đang xây dựng dự kiến 2014 hoạt động sẽ đáp ứng 80% nhu cầu trong nước. Kali và phân SA phải nhập khẩu 1,3 triệu tấn/năm. Như vậy, hàng năm còn phải nhập khẩu khoảng 2,6 triệu tấn phân bón các loại, trong đó, urê gần 50%, DAP 70%, SA và Kali 100%. Đây là lý do giá phân bón trong nước còn chịu tác động mạnh từ thị trường phân bón thế giới, đặc biệt là thời gian qua, giá phân bón thế giới biến động mạnh như: Urê tháng 1-2011 tăng thêm 80-100USD/tấn so với tháng 1-2010. Ngoài ra, giá urê trong nước còn chịu tác động bởi chính sách xuất khẩu của những nước sản xuất phân bón lớn như Trung Quốc tăng thuế xuất khẩu lên 110% đến hết tháng 6-2011. Yếu tố mùa vụ, mất cân đối cung cầu cục bộ, tác động thời tiết, chưa chủ động nguồn hàng, tỷ giá ngoại tệ biến động, đã làm việc bình ổn chưa được như mong muốn.4 giải pháp bình ổnLãnh đạo tỉnh Ninh Thuận cho rằng, bài toán cung cầu có thể tóm tắt: tổng lượng cung = tổng lượng cầu + dự trữ hợp lý, trong khi hiện nay mới là tổng lượng cung = tổng lượng cầu + dự trữ tối thiểu. Về cơ bản, dù các công ty đảm bảo đủ tổng lượng cung, nhưng từng thời điểm và từng nơi vẫn có những bất ổn do chưa chủ động nguồn hàng, nhất là khi vào thời vụ sản xuất từng loại cây trồng ở các vùng miền, trong đó quan trọng nhất là urê. Mạng lưới phân phối, nhất là của Nhà máy Đạm Phú Mỹ được xây dựng trên cả nước, nhưng vẫn xảy ra tình trạng đầu cơ ngoài mạng lưới, lấy hàng từ trong hệ thống phân phối dịch chuyển về phía đầu cơ làm bất ổn giá cả. Phân bón được đưa xuống tận nhà dân, nhưng với giá cao hơn mạng lưới phân phối chính thức hầu hết là đầu tư mua non sản phẩm hoặc kèm với lãi suất. Do vậy, nếu không quản lý hiệu quả sẽ khó bình ổn giá phân bón. Cần có sự phân bố hợp lý về mạng lưới, đặc biệt là vùng sâu vùng xa thêm kho dự trữ hợp lý phòng khi có thiên tai, dịch bệnh sẽ chủ động ứng phó. Dự trữ hợp lý sẽ hạn chế căng thẳng về giá. Tiến sĩ Nguyễn Lân Hùng cho rằng, việc dự báo có vai trò hết sức quan trọng, làm không tốt sẽ ảnh hưởng đến công tác bình ổn giá cả. Bộ Công Thương nên công bố giá từng vùng để bà con nắm, không để đại lý làm giá.Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Hồ Thị Kim Thoa, cần có 4 nhóm giải pháp giúp việc bình ổn phân bón. Đó là: Tăng cường nguồn hợp quy, phân bón cung phân bón trong nước đang và sẽ sản xuất. Cân đối giữa nhập khẩu và sản xuất phân bón trong nước để giữ giá thị trường qua việc điều tiết bằng công cụ thuế. Nâng cao hiệu quả hệ thống phân phối, đưa hàng đến nông dân với chi phí thấp nhất, kết hợp với việc quy hoạch hệ thống thương mại các tỉnh, sự phối hợp với các thành phần kinh tế cùng tham gia. Sử dụng công cụ dự trữ lưu thông phân phối.CÔNG PHIÊN ..


Đến hết tháng 10, Tổng công ty đã nhập khẩu khoảng 25 nghìn tấn u-rê và ký hợp đồng nhập khẩu hơn 10 nghìn tấn u-rê trong tháng 11. Tổng công ty lên kế hoạch phân bổ đưa hàng về các vùng miền, đáp ứng tối đa nhu cầu sử dụng phân bón của bà con nông dân. Hình minh họa Tăng xuất, giảm nhập Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn NN&PTNT dự báo, năm 2013 cả nước cần khoảng 10,3 triệu tấn phân bón các loại. Trong đó chúng ta chỉ phải nhập khẩu gần 2,5 triệu tấn, giảm khoảng 1,5 triệu tấn so với năm 2012 do nguồn phân bón sản xuất trong nước tăng. Cụ thể, theo tính toán của Bộ NN&PTNT, trong số gần 2,5 triệu phân bón nhập khẩu, có 850.000 tấn SA, 570.000 tấn DAP và 950.000 tấn kali và 100.000 tấn NPK. Riêng phân ure, chúng ta không nhập vì nguồn cung trong nước đáp đã ứng đủ nhu cầu tiêu thụ, thậm chí còn đang hướng đến xuất khẩu. Theo thống kê chính thức của Tổng cục Hải quan, tính đến hết 11 tháng năm 2012, Việt Nam xuất khẩu khoảng 1,182 triệu tấn phân bón các loại, bằng 127% so với cùng kỳ năm 2011. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là phân urê và NPK. Với nhu cầu phân đạm cả nước chỉ khoảng 2 triệu tấn/năm trong khi năng lực sản xuất phân urê của các nhà máy trong nước sẽ ở ngưỡng 2,6 triệu tấn vào năm nay, việc đẩy mạnh xuất khẩu, tìm kiếm khách hàng và thị trường quốc tế là yêu cầu bắt buộc với mỗi DN. Hiện Nhà máy đạm Phú Mỹ và Nhà máy đạm Cà Mau đang đề nghị Bộ Công Thương sang năm 2013 được xuất khẩu từ 60.000- 80.000 tấn urê hiện được xuất khẩu 50.000 tấn. Đây là hướng đi hợp lý để các DN sớm tiếp cận thị trường, chuẩn bị cho các năm tới, khi sản xuất urê trong nước cung đã vượt cầu, các nhà máy hoạt động ổn định. Dự kiến khoảng hơn 2 năm nữa, khi nhà máy khai thác muối mỏ Kali tại Lào của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam đi vào hoạt động, nước ta sẽ không phải nhập khẩu kali nữa. Với DAP, khoảng 3 năm nữa khi nhà máy DAP số 2 công suất 330.000 tấn/năm tại Lào Cai hoàn thành, sẽ đủ cung cấp hoàn toàn DAP trong nước. Với phân SA, hiện Cty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao cũng đang triển khai dự án dây chuyền sản xuất SA 100.000 tấn/năm. Tất cả sẽ giúp nước ta dần chấm dứt giai đoạn nhập khẩu phân bón, hướng tới chủ động và xuất khẩu phân bón với số lượng lớn. Theo ông Nguyễn Hạc Thúy - Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam, lượng phân bón nhập khẩu giảm mạnh là do sản xuất trong nước đang ngày càng đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của loại phân bón quan trọng. Ví dụ như phân urê, sản lượng năm 2012 đã dư so với nhu cầu khoảng 1,8 triệu tấn/năm. Phân NPK, sản xuất trong nước hiện khoảng trên 4 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu trên 3 triệu tấn... Ngoài ra, việc xuất khẩu phân bón không còn phải chờ cấp phép như trước kia. Và xuất khẩu phân bón tăng cũng cho thấy chất lượng phân bón sản xuất trong nước đã được nâng cao. Ông Lê Quốc Phong - Tổng giám đốc Cty CP Phân bón Bình Điền - cho biết, sản lượng phân NPK của Cty năm nay là 700.000 tấn. Lượng NPK này sau khi đủ và dư thừa để cung cấp cho thị trường trong nước nên công ty đã hướng tới xuất khẩu từ mấy năm qua. Năm nay, lượng phân bón xuất khẩu của công ty đạt cao nhất với số lượng 100.000 tấn NPK, chủ yếu sang thị trường Campuchia. Ông Phong cũng cho biết, sang năm 2013, công ty đặt mục tiêu xuất khẩu 130.000 tấn và sẽ mở rộng thêm thị trường sang Myanmar. Muốn xuất khẩu, phải có thương hiệu Đó là kinh nghiệm nằm lòng” của các DN xuất khẩu phân bón hiện nay. Ông Phong phân tích, xuất khẩu phân bón ở nước ta đang theo 2 loại, có thương hiệu và không có thương hiệu, còn gọi là hàng xá. Xuất khẩu phân bón theo dạng thương hiệu mới có một số DN thực hiện, chủ yếu xuất sang các thị trường gần như Lào, Campuchia, Nhật Bản... Với phân bón thương hiệu, có được giá bán tốt hơn, lợi nhuận cao hơn và quan trọng nhất là sẽ giữ được thị trường ổn định, lâu dài. Còn với phân bón không thương hiệu, hàng xá, chủ yếu xuất sang các thị trường như Thái Lan, Ấn Độ, Malaysia, châu Phi... Khi các nhà nhập khẩu thấy giá của Việt Nam rẻ hơn nước khác thì mua về đóng bao bì rồi tung ra thị trường dưới thương hiệu của họ. Như vậy thì mình chỉ là người gia công” cho họ với giá rẻ mà thôi” - ông Phong cho biết. Cũng chính thương hiệu mạnh đã giúp cho Cty CP Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao có được thị phần tại một thị trường khó tính như Nhật Bản. Ông Nguyễn Duy Khuyến - Tổng Giám đốc Cty CP Supe Phốt phát và hóa chất Lâm Thao - phấn khởi cho biết: Trong tháng 12/2012, Cty đã xuất những lô supe lân đầu tiên sang thị trường Nhật. Đây là một đất nước với nền nông nghiệp tiên tiến, đòi hỏi nguồn phân bón chất lượng cao và ổn định nên phân bón xuất được sang đây đòi hỏi rất khắt khe. Trong chuyến đi cuối tháng 12, đích thân Tổng Giám đốc Cty đã có chuyến khảo sát và giới thiệu, trình diễn mô hình bón phân Lâm Thao tại Nhật Bản. Tổng giám đốc Nguyễn Duy Khuyến cho biết, trước đó, phía Nhật Bản cũng đã cử nhiều đoàn sang tận Cty để giám sát quá trình sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm. Supe Lâm Thao cũng là đơn vị đầu tiên xuất khẩu được phân bón supe lân mang thương hiệu của chính Cty sang Nhật. Điều này chứng tỏ uy tín của thương hiệu chính là sức nặng quyết định việc xuất khẩu phân bón này. Chia sẻ thêm về kinh nghiệm xuất khẩu, Tổng Giám đốc TCty phân bón và hóa chất dầu khí PVFCCo Cao Hoài Dương nói: Nắm bắt được xu hướng dư thừa đạm urê, ngay từ năm 2010, PVFCCo đã tập trung vào công tác nghiên cứu, chuẩn bị thị trường. Cùng với việc cân đối để đảm bảo nhu cầu phân bón ở thị trường trong nước, PVFCCo đã bắt đầu hình thành hệ thống phân phối đạm Phú Mỹ tại một số nước trong khu vực như Campuchia, Lào, Myanmar. Tại Campuchia, PVFCCo đã thành lập chi nhánh để tiến hành các hoạt động kinh doanh phân bón và chuẩn bị thị trường cho công tác xuất khẩu sau này. Bên cạnh đó, năm 2011, PVFCCo đã ký kết biên bản ghi nhớ đặt quan hệ đối tác với những Cty thương mại phân bón quốc tế lớn như Mitsubishi, Sojitz và Transammonia về việc xuất khẩu phân đạm ngay khi nhu cầu trong nước đã được cung ứng đầy đủ… Lê Anh. Nhà máy Đạm Phú Mỹ trực thuộc tổng công ty liên tục chạy hết công suất. Sản lượng của nhà máy trong quý II và quý III/2013 dự kiến đạt khoảng 360.000 tấn phân đạm, cộng với lượng hàng tồn trữ tại hệ thống kho của tổng công ty và các đại lý khoảng 70.000-75.000 tấn sẽ có khả năng đáp ứng 40% nhu cầu phân đạm trong vụ hè thu. Lượng phân urê tồn kho trên cả nước hiện ước tính khoảng 130.000 tấn, trong khi tổng nhu cầu cho vụ hè thu là khoảng 800.000 hợp quy, phân bón tấn. Nếu nguồn cung từ các nhà máy sản xuất trong nước ổn định thì nhu cầu phân urê cho vụ mùa này sẽ được đáp ứng tương đối đầy đủ. Hiện tại, dù Nhà máy phân đạm Phú Mỹ, doanh nghiệp chiếm gần 40% thị trường urê trong nước, kiên quyết giữ giá bán ở các đại lý là 9.200 đồng/kg urê, nhưng các đại lý ở ĐBSCL và Tây Nguyên cho biết họ phải bán ra có 8.000 đồng/kg để nhanh thu hồi vốn, còn hơn là bị lỗ nặng trong sắp tới khi giá dầu tiếp tục giảm.Phân urê của nhà máy phân đạm Hà Bắc hiện đã giảm từ 8.200 đồng xuống 7.600 đồng/kg. Thị trường phân urê trong nước bị tác động mạnh trước urê nhập khẩu tiểu ngạch của Trung Quốc ở khu vực phía Bắc có giá bán 6.400-7.000 đồng/kg.Phân DAP vào thời điểm giữa năm nay ở mức cực đỉnh 23.000 đồng/kg, nay giảm nhanh như xe đứt phanh”, còn 16.000 đồng, khiến các doanh nghiệp nhập phân DAP trong tháng 6 và 7 đang ôm một cục nợ. Các doanh nghiệp phân bón trong nước nắm bắt được tình hình giá dầu giảm, nhưng không ngờ giảm quá nhanh nên nhiều nhà nhập khẩu thua lỗ nặng với các lô hàng nhập về trong vài tháng gần đây.Từ đầu năm tới tháng 7 năm nay, giá phân bón trong nước tăng cao chưa từng thấy trong nhiều năm qua do ảnh hưởng của giá phân bón thế giới và cước vận tải gia tăng. Nay giá dầu giảm, giá phân giảm theo. Phần lớn phân hóa học hay nguyên liệu sản xuất ra phân hóa học là từ dầu mỏ và khí đồng hành với khai thác dầu mỏ.Do giá dầu thế giới giảm mạnh trước tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, giá phân bón trên thị trường thế giới cũng tụt mạnh. Một tấn urê giảm 200-250 đô la Mỹ xuống còn xấp xỉ 600 đô la.. Ông Lê Quốc Phong, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam kiêm Tổng Giám đốc Công ty Phân bón Bình Điền cho biết, trong 4 tháng đầu năm, lượng phân bón xuất khẩu của Bình Điền sang Campuchia lên tới 50.000 tấn, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước. Nếu năm 2011 Bình Điền xuất qua Campuchia hơn 60.000 tấn thì năm 2012 này chắc chắn sẽ cán đích 100.000 tấn sản phẩm các loại, chủ yếu là đạm hạt vàng 46A+, Super DAP và Đầu Trâu Agrotain 20-20-15 TE… Doanh số dự kiến vượt 70 triệu USD. Bị ép” giá từ bên ngoài Những ngày qua, khi Trung Quốc – thị trường nhập khẩu phân bón của nước ta nâng thuế xuất khẩu mặt hàng này, ngay lập tức thị trường phân bón nội địa rơi vào... Lúng túng. Mới đây, tại một hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Quy hoạch phát triển hệ thống sản xuất và hệ thống phân phối mặt hàng phân bón giai đoạn 2010 – 2020, hầu hết các chuyên gia đều nhận định: Việc bình ổn giá phân bón là rất khó, nguyên nhân chính là bởi chúng ta lệ thuộc quá lớn vào nhập khẩu và sự biến động bên ngoài thị trường quốc nội. Theo ông Nguyễn Huy Phiêu – nguyên Viện phó Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, phân bón là mặt hàng có nguyên liệu phụ thuộc vào dầu khí thiên nhiên, do vậy, giá dầu trên thế giới tăng, đương nhiên giá phân bón cũng sẽ tăng theo. Và như vậy, phân bón phải luôn đối diện với sự biến động của giá. Nhận định xung quanh vấn đề giá cả, ông Nguyễn Đình Hạc Thúy – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho rằng, hiện nay, nhiều nguyên liệu đầu vào trong nước tăng giá, trong đó có điện cũng đã ảnh hưởng nhiều đến giá thành phân bón. Theo ông Thúy, cần điều chỉnh bằng chính sách thuế. Hiệp hội luôn bám sát thị trường phân bón trong nước và phân bón nhập khẩu để có những đề xuất lên Chính phủ can thiệp khi cần thiết. Khi phân bón trong nước dư thừa thì cho doanh nghiệp được phép xuất khẩu. Đối với các mặt hàng trong nước đã sản xuất đủ thì đề nghị đánh thuế nhập khẩu cao nhằm bảo vệ hàng trong nước, chẳng hạn như N.P.K và phân lân. Theo ông Phùng Hà - Cục trưởng Cục Hóa chất Bộ Công thương, để bình ổn thị trường này, Bộ Công thương đã đưa ra nhiều phương án trong đó chú trọng đầu tư vào hệ thống sản xuất và phân phối phân bón. Đẩy mạnh các dự án đang trong quá trình triển khai như Đạm Ninh Bình hay Dự án Nhà máy DP số 2 sẽ mau chóng khởi công vào năm 2011... Cơ hội” cho hàng giả xâm lấn thị trường? Việc thắt chặt quản lý chất lượng phân bón cũng đang là vấn đề cần được quan tâm. Theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam, thời gian qua, cơ quan chức năng đã phát hiện 60 doanh nghiệp vi phạm trên cả nước. Các đơn vị này đã cung ứng hàng ra 30 tỉnh, thành. Trong số này, có 3 doanh nghiệp vi phạm nặng đã bị cơ quan chức năng truy tố. Thông thường phân bón giả, phân kém chất lượng sẽ xuất hiện nhiều khi giá phân bón tăng cao, điển hình như thời điểm năm 2008” – Ông Thúy nhận định. Xu thế hiện nay trên thế giới thường dùng phân bón hữu cơ chất lượng cao, hạn chế phân bón hóa học. Tuy nhiên, vấn đề kiểm định phân bón cũng gặp nhiều khó khăn. Hầu hết các đại biểu tham gia hội thảo đều cho rằng, khâu kiểm soát chất lượng khó nhất là phân bón NPK và phân bón vi sinh hỗn hợp. Lực lượng quản lý thị trường dù có đến tận đơn vị các huyện cũng không làm xuể, vì hệ thống máy móc phân tích định giá chất lượng kém, không phát hiện được. Bởi vậy, việc siết chặt và mạnh tay hơn nữa trong việc thu hồi giấy phép các cơ sở sản xuất nhỏ, không đảm bảo chất lượng là việc cần phải làm và làm thật mạnh mẽ. Còn theo ý kiến của ông Nguyễn Hồng Lam - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Tập đoàn sản xuất phân bón Quế Lâm, chúng ta cần quản lý chặt chẽ hơn nữa quy hoạch sản xuất phân bón đặc biệt là phân bón vô cơ, tránh hiện tượng có nhiều cơ sở sản xuất phân bón nhưng đều không hoạt động hết công suất. Việc dẹp hẳn hàng nhái, hàng giả phân bón rất khó còn do có quá nhiều đại lý buôn bán nhỏ, lẻ. Hợp quy, phân bón Theo ông Phùng Hà, Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong sản xuất phân bón đã được ban hành nhưng việc thực thi còn chưa hiệu quả do các mức phạt có biên độ giao động quá lớn giữa các mức độ vi phạm; do không có một hướng dẫn cụ thể để xác định thế nào là phân bón giả và thế nào là phân bón kém chất lượng... Theo chỉ đạo mới nhất của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương sẽ chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý phân bón và quý II năm 2011 sẽ ban hành thông tư hướng dẫn việc thực hiện Nghị định này. Phương Thảo. Thị trường:Năm 2011, sản xuất nông nghiệp nước ta cần khoảng 900 ngàn tấn kali. Hiện nay, ngành công nghiệp phân bón Việt Nam vẫn chưa sản xuất được phân kali, nguyên do chủ yếu là không có nguồn nguyên liệu, như mỏ kali. Vì vậy, thị trường phân kali trong nước đã hoàn toàn bị chi phối bởi thị trường nước ngoài. Đầu năm 2008 giá kali tăng gấp nhiều lần, đã ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư phân kali cho sản xuất nông nghiệp, gây khó khăn cho nông dân. Hiện nay, giá phân kali NK đang có xu hướng tăng lên, do cung cầu, lượng tồn kho phân kali không nhiều, mà nhu cầu phân kali cho vụ đông xuân sắp tới lại cần lớn.Giải pháp:Cần có những giải pháp tích cực chuẩn bị chủ động ngay từ bây giờ mới đáp ứng đủ phân bón kali cho nông dân, với giá hợp lý. Theo cơ chế thị trường, khi có lợi thì các DN đổ xô NK, gây lỗ; khi không có lợi thì nhập chững lại, gây thiếu hụt nguồn kali cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, một số tư thương lợi dụng tình hình đưa kali giả, kém chất lượng ra ngoài thị trường để kiếm lời, đã và đang làm thiệt hại cho nông dân.Trước tình hình trên, Cty CP Vật tư nông sản là một trong những DN lớn về NK kinh doanh phân bón. Bước vào vụ đông xuân 2010-2011, Công ty đã chủ động và có kế hoạch NK với số lượng lớn phân bón các loại, trong đó có hàng trăm ngàn tấn kali. Những năm qua Cty góp phần cân đối cung cầu phân bón nói chung và phân kali nói riêng của cả nước. Cty đã phối hợp với nhà cung cấp phân bón lớn nhất thế giới Belarusian Potash Company BPC sẽ đảm bảo đủ nguồn cung và chất lượng cao về phân kali để cung ứng cho nông dân. Hiện tại, Cty đã tổ chức hàng trăm đại lý phân bón với mạng lưới cung ứng xuyên suốt khắp mọi miền đất nước, đáp ứng kịp thời và đảm bảo chất lượng phân bón với giá hợp lý, nhất là phân kali. Thăm quan ruộng lúa có sử dụng sản phẩm phân bón Hữu Nghị tại xã Thiệu Vận huyện Thiệu Hóa- Thanh Hóa Sản phẩm đã có mặt ở tất cả các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung bộ với nhiều chủng loại NPK 20-20-15+TE, NPK 16-16-8+13S, NPK 15-5-16+TE, NPK 13-13-13+TE, NPK 13-7-5+TE... Đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho tất cả các loại cây trồng theo từng giai đoạn bón lót, bón thúc.Bà Lê Thị Quyên - thôn 4, xã Thiệu Vận Thiệu Hóa - Thanh Hóa cho biết: Cả hai vụ gần đây, tôi bón phân Hữu Nghị. Bằng kinh nghiệm trồng lúa lâu năm, tôi nhận thấy, khi bón phân Hữu Nghị cây lúa nhanh bén rễ hồi xanh, bộ rễ ăn sâu và có nhiều rễ trắng, cây lúa cứng. Nhờ đó mà lúa sinh trưởng phát triển tốt, đẻ nhánh sớm, lúa đẻ khỏe, trổ bông và chín tập trung, chín đều với một màu vàng đẹp. Nhìn bộ lá rất ưng mắt, có thể do hàm lượng dinh dưỡng trong phân hợp lý nên màu lá xanh bền. Lá lúa dầy, cứng, bản lá to, đứng lá, số nhánh hữu hiệu tăng. Sử dụng loại phân này hạn chế được tối đa sâu, bệnh phá hoại. Đặc biệt năng suất lúa tăng rõ rệt, cao hơn so với ruộng không sử dụng phân bón Hữu Nghị 50kg/sào, hiệu quả cao hơn 342.500 đồng so với ruộng đối chứng”.Còn anh Thiều Quang Khuyên - thôn 9, xã Yên Phong Yên Định - Thanh Hóa nhận định: Vụ mùa năm ngoái, được sự khuyến cáo của UBND huyện, tôi và nhiều hộ trong thôn đã thay đổi cách sử dụng phân bón. Quá trình chăm sóc, theo dõi lúa sinh trưởng cho thửa ruộng có sử dụng và không sử dụng phân bón này, tôi thấy rằng, lúa có sử dụng phân Hữu Nghị thì cây cứng và tỷ lệ hạt chắc nhiều hơn nên năng suất cao hơn so với ruộng không dùng nó. Về mặt sản lượng thì cao hơn ruộng không sử dụng phân Hữu Nghị khoảng 35-40kg/sào. Cũng theo anh Khuyên: Thực tế theo hướng dẫn của Phòng NN- PTNT, chúng tôi bón đúng quy định như vậy thì thấy số lượng bón phân Hữu Nghị chỉ chưa đến ½ so với số lượng của một số loại phân NPK khác. Không chỉ có giảm chi phí chăm bón mà còn giảm được chi phí thuốc BVTV. Theo tính toán, sử dụng phân bón Hữu Nghị cho hiệu quả cao hơn một số loại phân bón thông thường khoảng 187.500đ/sào.Việc Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị đầu tư Nhà máy sản xuất phân bón NPK chất lượng cao theo công nghệ hiện đại, tự động hóa hoàn toàn bằng phần mềm vi tính cho ra những sản phẩm phân bón hàm lượng dinh dưỡng đậm đặc, đồng đều, ổn định về chất lượng, viên phân sạch sẽ, chắc bóng, lượng bón ít làm giảm các chi phí chăm bón, vận chuyển, lưu thông, bảo vệ môi trường và sức khỏe người sử dụng sẽ góp phần mang lại hiệu quả thiết thực và giá trị cao cho nông dân.


II. Chứng nhận HACCP  Quyết liệt ngăn ngừa hợp quy nạn phân bón giả


Ông Nguyễn Duy Khuyến - Tổng Giám đốc Cty CP Supe Phốt phát và hóa chất Lâm Thao - phấn khởi cho biết: Trong tháng 12/2012, trung Quốc được dự báo sẽ tăng giá nhiều loại phân bón đặc biệt là urê phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Sản lượng của nhà máy trong quý II và quý III/2013 dự kiến đạt khoảng 360.000 tấn phân đạm, an toàn trong sản xuất phân bón. Còn với hành vi vi phạm quy định về sản xuất, đạm dễ bị chuyển thành amonium bay hơi gây thất thoát lớn. Nếu nguồn hàng lậu này bị đứt thì thị trường phân bón sẽ thiếu hụt, vận hành - bảo dưỡng và phân phối sản phẩm của dự án Nhà máy đạm Cà Mau..Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú: Muốn quản lý thị trường phân bón cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý gồm lực lượng Quản lý thị trường, Cảnh sát kinh tế, Hải quan… tại các địa phương. Thời gian tới, cơ quan quản lý cần thực hiện các giải pháp như: Hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến chất lượng phân bón, đưa phân bón vào sản phẩm kinh doanh có điều kiện, tăng cường kiểm tra- kiểm soát thị trường…. Small_14227.jpg Theo Phó chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam, vụ Hè - Thu 2008, cả nước cần khoảng 400.000 tấn Urê và 2.000.000 tấn phân bón các loại. Khi bước vào sản xuất vụ Đông - Xuân tới, chỉ riêng nhu cầu về phân Urê cũng sẽ tăng lên khoảng 450.000 tấn. Trong khi đó, với năng lực sản xuất hiện tại, các nguồn trong nước mới chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu về Urê; còn lại 100% phân bón các loại như DAP, SA, Kali đều phải nhập khẩu. Theo đó, tình trạng căng thẳng về phân bón dự báo sẽ còn kéo dài tới năm 2010. Trước tình hình trên, Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã kiến nghị Chính phủ có định hướng cho kế hoạch sản xuất và nhập khẩu phân bón từ nay tới 2010; trong đó đẩy mạnh phát triển sản xuất phân hữu cơ, cải tiến công nghệ sản xuất N-P-K chất lượng cao thay thế DAP nhập khẩu, ngừng xuất khẩu cũng như tạm nhập tái xuất đối với tất cả các loại phân bón. Hiện giá phân bón các loại đã tăng từ 20 – 30%. Giá phân Urê bình quân trên cả nước có từ 7.200- 8.700đ/kg, có nơi 9.000đ/kg; giá Kali từ 12.000- 13.500đ/kg, DAP từ 22.500đ- 24.000đ/kg, Lân 3.000- 3.500đ/kg. Nguyên nhân do cuối tháng 4, Trung Quốc nước cung cấp 1/5 lượng phân bón toàn thế giới đột ngột tăng thuế suất đối với phân bón từ 35% lên 135%, đẩy giá trong nước tăng theo. Mỗi tấn Urê sản xuất trong nước sẽ giảm được cước vận chuyển, phí bảo hiểm và thủ tục hải quan… nên giá thành sẽ thấp hơn so với hàng nhập khẩu từ 110 – 120 USD/tấn. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp té nước theo mưa”, nâng giá bán gần với giá thế giới khiến nông dân càng thêm khó khăn khi chi phí đầu vào sản xuất tăng cao. Từ đầu năm 2011, giá phân đạm trên thị trường quốc tế đã tăng liên tục. Nếu tính giá đã gồm cước vận chuyển về khu vực Đông Nam Á thì đã tăng lên mức hơn 500USD/tấn hiện nay so với 400USD/tấn vào tháng 1/2011. Đồng thời, do một số bất ổn tại các nước có nguồn xuất nên nguồn cung phân đạm không đảm bảo, trong khi đến 50% lượng phân đạm sử dụng trong nước lại phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Trong khi đó, trong nước mặt hàng này có giá bán thấp hơn giá thị trường từ 10-15%. Do có sự chênh lệch giữa giá trong nước và giá quốc tế nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón khó triển khai nhập khẩu, dẫn đến tình trạng thiếu hàng, đầu cơ hàng…Trước tình hình trên, các Bộ, ngành liên quan Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Tài chính và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã thống nhất chủ trương kể từ quý II/2011 cho phép PVFCCo áp dụng chính sách giá bán đạm Phú Mỹ theo giá trần” sát với thị trường. Nhờ có chủ trương này đã kích thích các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón bổ sung nguồn cung cho thị trường, giảm thiểu nguy cơ gây sốt giá. Cụ thể là, lượng phân đạm nhập khẩu trong tháng 4/2011 đạt hơn 134 ngàn tấn, bằng số lượng 3 tháng trước đó gộp lại và tính chung cho cả quý II/2011 thì lượng phân đạm nhập khẩu đạt hơn 200 nghìn tấn, cao hơn 60 nghìn tấn so với quý I/2011. Riêng PVFCCo, từ đầu năm đến hết tháng 5/2011 đã nhập khẩu gần 80 ngàn tấn phân bón các loại. Cùng với lượng phân bón do Nhà máy Đạm Phú Mỹ sản xuất hiện PVFCCo đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu phân đạm trong nước. Theo ông Lê Thanh Minh một người dân xóm 5, xã Hương Thủy Hương Khê cho biết: Hiện giá phân bón bán ngoài thị trường là 450 nghìn đồng/bao, mua ở đây với giá ưu đãi, chỉ có 370 nghìn đồng/bao, mỗi bao phân bón Nhà nước hỗ trợ chúng tôi 80 nghìn đồng. Ngoài việc bán hàng tận nơi với giá rẻ, Công ty còn cử cán bộ kỹ thuật trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật bón phân hợp lý và phòng trừ sâu bệnh trên các loại cây trồng...Công ty hop quy, phan bon TNHH Một thành viên Phân bón và Hóa chất Dầu khí miền bắc còn tiếp tục tổ chức bán phân bón với giá ưu đãi giảm khoảng 1.500 đồng/kg so với giá thị trường, với số lượng hàng khoảng 10.000 tấn phân bón các loại cho người dân vùng lũ Hà Tĩnh đến hết vụ sản xuất năm 2010 - 2011. Đây là chương trình theo cam kết giữa Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí với UBND tỉnh Hà Tĩnh nhằm góp phần khắc phục hậu quả của lũ lụt, hỗ trợ người dân phát triển sản xuất.


Kinh nghiệm sản xuất từ xa xưa là: Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Các yếu tố sản xuất quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Và ngay trong từng yếu tố cũng đòi hỏi tính khoa học, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng vùng, từng vụ, từng năm. Riêng về cách dùng phân bón, phải tuân thủ các yếu tố: bón đúng phân, bón đúng liều lượng, bón đúng lúc và bón đúng cách. Ngay trong vụ đông xuân vừa qua, trong việc sử dụng phân bón có mấy điều đáng lưu ý: Đó là nhiều hộ nông dân không chú ý sử dụng phân bón hữu cơ, chủ yếu dùng phân vô cơ. Đó là tình trạng sử dụng số lượng phân bón quá lớn, không đúng thời vụ. Theo thống kê có tới một nửa số hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long bón thừa đạm cho lúa. Bón đạm quá nhiều, lại bón chậm khi lúa đã làm đòng khiến cho lúa bị sâu bệnh, lốp, thời gian trổ bông kéo dài và dẫn tới làm giảm chất lượng gạo. Có nhiều loại phân bón, như u-rê, NPK, DAP, SA, phân bón lá các loại... Nhưng theo các đoàn khảo sát của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì hầu hết nông dân ta quen dùng hai loại là u-rê và DAP. Hai loại phân bón này được sử dụng trong suốt cả vụ sẽ gây hiện tượng cây lúa thiếu một số chất dinh dưỡng, làm giảm năng suất và chất lượng gạo. Vì vậy nhà nông cần theo đúng hướng dẫn của các nhà khoa học, bón các loại phân phù hợp; bón đúng thời điểm, từ bón lót, đến bón thúc đợt một, bón thúc đợt hai bón đón đòng. Cùng với các loại phân bón hóa học, cần chú ý sử dụng phân hữu cơ được ủ theo đúng phương pháp, bảo đảm vệ sinh môi trường; sử dụng phân bón hữu cơ sinh học, hữu cơ vi sinh, hữu cơ khoáng... Ngay từ đầu vụ cấy lúa mùa, các địa phương, các hợp tác xã, trung tâm khuyến nông nên tổ chức tập huấn cho cán bộ kỹ thuật, hướng dẫn tỉ mỉ các hộ nông dân về kỹ thuật canh tác, trong đó có kỹ thuật bón phân đúng phương pháp. Đương nhiên phải căn cứ vào điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng từng vùng, tiểu vùng để có các phương thức phù hợp, tiết kiệm chi phí sản xuất, mang lại hiệu quả cao cho nông dân. Qua kiểm tra 11 cơ sở sản xuất, kinh doanh sắt thép, có đến 6 cơ sở vi phạm với nhiều sắt thép Trung Quốc nhập khẩu được bày bán; 5/5 mẫu MBH không đạt chất lượng; 3/9 mẫu phân bón có chất lượng thấp hơn mức đã công bố; 6/7 mẫu nước uống không đạt tiêu chuẩn; 11/15 các mẫu sản phẩm như quạt bàn, quạt treo tường, máy sấy tóc, nồi cơm điện, bàn ủi điện, ấm đun nước siêu tốc... Không đạt quy chuẩn kỹ thuật; 10/11 cơ sở kinh doanh sản phẩm điện, điện tử vi phạm pháp luật; 7/20 đơn vị kinh doanh xăng dầu, gas vi phạm về chất lượng, đo lường. Nguyễn Nam. Hiệp hội này cũng cho biết, tính đến 30/3/2010, lượng phân urê phục vụ hè thu là 576.000 tấn. Dự kiến, đến tháng 4, sản xuất trong nước sẽ có thêm 85.000 tấn, nâng tổng số lượng urê lên 661.000 tấn. Lượng phân DAP đến cuối tháng 3 sẽ đạt 128.000 tấn, phân SA là 150.000 tấn và kali là 190.000 tấn. Ngoài ra còn có các loại super lân, phân lân nung chảy, phân NPK và phân vi sinh-hữu cơ.Trên thị trường quốc tế, dự báo có thể xảy ra một đột biến lớn, ngắn về giá phân bón. Thực tế, các loại phân bón đã tăng trong quý 1/2010. Dự báo giá một số loại còn tiếp tục tăng trong thời gian gần. Giá sulphur tăng cao kéo theo giá DAP sẽ tăng trong tháng 4-5/2010. Cho đến tháng 6, giá DAP mới cải thiện do Trung Quốc, Australia có hàng xuất và có thêm nhà máy mới. Mới đây, tại Hội nghị Phân bón cho vụ hè thu 2010, ông Lê Quốc Phong, Phó chủ tịch Hiệp hội phân bón nhấn mạnh: Giá phân bón hiện nay chưa tăng vì chưa vào vụ. Tuy nhiên, với tình hình giá than, điện tăng dự báo giá sẽ tăng khi nông dân vào vụ sản xuất”. Năm 2009, các doanh nghiệp ngành phân bón đã thực hiện bình ổn giá thì năm nay càng cần thiết. Với tư cách là Giám đốc Công ty Phân bón Bình Điền, ông Phong khẳng định: Công ty cam kết giữ giá phân bón cho đến hết vụ sản xuất”. Còn trên cương vị Phó chủ tịch Hiệp hội, ông kêu gọi các doanh nghiệp trong ngành cân đối mức giá hợp lý cho nông dân. Quanh vấn đề bình ổn giá phân bón, doanh nghiệp cho rằng, năm nay nhiều khó khăn hơn năm hợp quy, phân bón trước như lãi suất ngân hàng tăng cao, giá điện, than tăng nhưng yêu cầu đầu ra không tăng là khó cho doanh nghiệp. Bà Nguyễn Thị Ngọ, Phó chủ tịch Hiệp hội nói, nhiều mặt hàng khác được xét hỗ trợ bình ổn giá thì phân bón cũng cần thiết được xem xét. Bà kiến nghị: Việc bình ổn giá cần tính đến chuyện giảm lãi suất vay ngân hàng. Không thể chấp nhận được mức lãi suất 18-20%”. Một doanh nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long cho biết, một mặt phải cố gắng dự trữ phân bón cho vụ hè thu nhằm giữ ổn định giá, mặt khác, thị trường phân bón tại đây đang bị đóng băng” chưa tiêu thụ được. Do Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu... Đang bị mặn xâm nhập nên nhiều diện tích vụ hè thu phải xạ lại. Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết sẽ có cuộc họp với các Bộ Tài chính, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các nhà sản xuất về giá phân bón sao cho phù hợp. Về lâu dài, Hiệp hội cũng đề nghị các nhà sản xuất cần nghiên cứu dần chuyển đổi công nghệ sản xuất NPK để đỡ về kho bãi, vận chuyển, công lao động, chi phí và góp phần bảo vệ môi trường. Hiện nhiều nước đã chuyển từ công nghệ tạo hạt hơi nước sang công nghệ lò cao, từ công nghệ lò cao sang công nghệ tạo hạt hợp lý hóa học. NPK sản xuất theo công nghệ này cho chất lượng cao, hợp lý hóa đất và cây trồng tối ưu, cho năng suất cao. Một xu thế khác mà thế giới đang chuyển hướng sử dụng là phân hữu cơ, phân vi sinh. Hiện một số doanh nghiệp trong nước phát triển tốt sản phẩm này. Thuận lợi là nguyên liệu có nhiều. Đại diện Hiệp hội Phân bón cũng kiến nghị phát triển phân lân nung chảy. Năm 2008, Hiệp hội đã kiến nghị phát triển phân lân nung chảy thêm 1 triệu tấn vì hiện đang khan hiếm. Trong nước mới có Công ty Văn Điển, Ninh Bình công suất 600.000 tấn và có kế hoạch phát triển thêm 200.000 tấn, Công ty Super Lâm Thao là 300.000 tấn...Loại phân này có thể đáp ứng cho cơ cấu phân bón phục vụ nông nghiệp trong nước và một phần xuất khẩu. Nhưng việc tuyên truyền, tiếp thị chưa bài bản nên việc sử dụng còn hạn chế. Theo đó, Hiệp hội đề nghị trước mắt nên phát triển loại phân này đến 1,5 triệu tấn từ năm 2010 -2015. Theo TS Nguyễn Đăng Nghĩa, GĐ Trung tâm Nghiên cứu đất - phân bón & môi trường phía Nam Viện Thổ nhưỡng - nông hóa, chưa khi nào thị trường phân bón ở VN nhiễu loạn như bây giờ, với khoảng 5.000 loại phân đang lưu hành. Bên cạnh những sản phẩm thực sự chất lượng là vô số mặt hàng phân bón có chất lượng thuộc loại trời ơi”, được làm ra từ những xưởng SX 2 cuốc 2 xẻng”, bán với giá rẻ như bèo. Nông dân không thể đánh giá được chất lượng, cứ thấy giá rẻ là mua nên sau khi sử dụng mới biết đã lâm cảnh tiền mất tật mang”. Sự thể này gây mất lòng tin trong người tiêu dùng và làm ảnh hưởng đến các nhà SXKD phân bón có uy tín. Phân giả, phân nhái thì các ngành chức năng còn bắt, xử lý được; còn đối với loại phân kém chất lượng thì bó tay. Thiệt thòi luôn thuộc về nông dân và những đơn vị làm ăn chân chính”, TS Nguyễn Đăng Nghĩa nói. Trước thực tế đó, vào tháng 6/2013, Cty Vinacafe Quy Nhơn và Cty Biffa đã bắt tay hợp tác làm thành 1 liên doanh vừa SX vừa cung ứng các loại phân bón NPK với mục tiêu đưa sản phẩm phân bón chất lượng cao đến với nông dân. Theo đó, Cty Vinacafe Quy Nhơn là đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm nguyên liệu đầu vào, đồng thời lo dịch vụ đầu ra. Cty Biffa là đơn vị chịu trách nhiệm SX. Sản phẩm được mang tên Vinacafe Quy Nhơn”. Dây chuyền SX phân bón của liên doanh Biffa - Vinacafe Quy Nhơn Đầu năm 2013, xác định yêu cầu về nhu cầu sản phẩm phân bón trên thị trường không những phải đạt các hàm lượng theo công bố mà còn phải hội tụ các yếu tố sắc sảo, nhanh tan, đồng nhất, chất lượng ổn định… Cty Biffa quyết định đầu tư lắp đạt dây chuyền SX công nghệ cao. Sau khi học tập kinh nghiệm từ các đơn vị SX phân bón uy tín trong và ngoài nước, được sự hỗ trợ của Bộ KH-CN và Sở KH-CN Bình Định, Cty Biffa tiến hành đề tài SX phân bón NPK 1 hạt bằng công nghệ tạo hạt hơi nước. Hiện Cty đã hoàn thành hệ thống thiết bị máy móc hiện đại với công suất 50.000 tấn/năm; trình độ công nghệ tương đương với công nghệ nhập khẩu, sản phẩm làm ra đạt các yêu cầu cao cấp như nâng cao độ bóng, tính tan, sự đồng nhất về tỷ lệ hàm lượng, nâng cao tổng hàm lượng dinh dưỡng đạm lân, kali… Ông Nguyễn Nhật, GĐ Cty Vinacafe Quy Nhơn cho biết: Sau khi 2 bên ký kết hợp đồng liên doanh, chúng tôi đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại các tỉnh Tây Nguyên để giới thiệu sản phẩm liên doanh đến với các đơn vị SX cà phê, tiêu. Sản phẩm của liên doanh nhanh chóng đi vào thị trường, số lượng phân bón SX ra và tiêu thụ liên tục tăng. Qua 6 tháng thâm nhập thị trường, chúng tôi đã tiêu thụ được 3.000 tấn phân bán các loại”. Theo ông Võ Tuấn Toàn, GĐ Cty Biffa, sản phẩm của liên doanh SX phân bón đang lưu hành trên thị trường gồm các loại: NPK 16-16-8-13S, NPK 16-10-6, NPK 17-7-18-13S+BO, NPK 20-5-6-13S-TE, phân đạm hạt vòng… Qua sử dụng, những đơn vị và nông dân tiêu thụ sản phẩm phân bón liên doanh Biffa - Vinacafe rất hài lòng về chất lượng lẫn giá thành phải chăng. Ông Lê Văn Hiển, Trưởng phòng Nông nghiệp, Cty TNHH MTV Cà phê 734 xác nhận: Trước tình hình thị trường phân bón loạn xạ cả lên, nhiều loại phân giả, kém chất lượng làm cho cà phê và tiêu chết hàng loạt khiến chúng tôi phải dè dặt trong việc chọn lựa sản phẩm để bón cho diện tích cà phê của mình. Sau 1 thời gian sử dụng, chúng tôi khẳng định phân bón được SX từ liên doanh Biffa và Vinacafe là sản phẩm đáng tin cậy”. Phân bón liên doanh Biffa - Vinacafe không chỉ hấp dẫn với cây cà phê và cây tiêu ở Tây Nguyên mà còn rất hít” đối với nông dân các vùng đồng bằng. Ông Phan Sỹ Hùng, Phó phòng NN-PTNT huyện Phù Cát Bình Định cho hay: Sản phẩm của liên doanh còn có loại phân chuyên dụng cho cây lúa rất hiệu quả. Ngoài ra, cây trồng cạn chủ lực trên địa bàn huyện Phù Cát là đậu phộng khi được bón phân của liên doanh cũng phát huy hết tiềm năng năng suất. Chất lượng chẳng kém các loại phân khác mà giá thành luôn rẻ hơn 15% nên nông dân rất tin dùng”. Ông Võ Tuấn Toàn, GĐ Cty Biffa cho biết: Từ nay đến cuối năm, chúng tôi sẽ SX hàng trộn cho Hoàng Anh Gia Lai 1.000 tấn để bón cho cây mía; SX 1.500 tấn phân 1 màu cho cây cà phê mùa khô; SX 1.000 tấn phân NPK mùa khô cung ứng cho các đại lý tại Tây Nguyên. Với tốc độ tiêu thụ mạnh như thế này, kế hoạch năm 2014 chúng tôi sẽ tiêu thụ khoảng 10.000 tấn và sang năm 2015 con số này sẽ tăng lên 20.000 tấn các loại phục vụ cho các loại cây cà phê, tiêu, mía, lúa…”. Cty Vinacafe Quy Nhơn là đơn vị duy nhất có 100% vốn Nhà nước có nhiệm vụ cung ứng các loại phân bón cho các đơn vị trong và ngoài ngành với tiêu chí đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, chúng tôi còn có trách nhiệm làm bình ổn giá phân bón trên địa bàn miền Trung - Tây Nguyên”, ông Nguyễn Nhật, GĐ Cty Vinacafe Quy Nhơn.. Như vậy, việc sản xuất vỏ bao phân bón giả này cung cấp cho đối tượng Lê Thị Hương là có hệ thống và chắc chắn sẽ là 1 trong số các nhà máy SX bao bì đóng trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Bởi vậy, đề nghị Cơ quan CSĐT công an tỉnh Nghệ An cần phải điều tra làm rõ đơn vị SX bao bì nào đã tiếp tay cho thị Hương làm phân giả để lừa gạt đồng bào dân tộc tại huyện Quế Phong xử lý theo đúng pháp luật, đồng thời lập lại kỷ cương phép nước. Ảnh minh họa nguồn: agroviet.gov.vn ĐCSVN-Bộ NN&PTNT cho biết, năm 2011 ước tính cả nước sản xuất đạt 5,64 triệu tấn phân bón. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất, lượng phân bón nhập khẩu NK khoảng 3,63 triệu tấn. Từ nay đến cuối năm nếu không có biến động lớn về tình hình phân bón thế giới, với lượng NK và sản xuất như hiện nay sẽ đủ phân bón cho vụ Đông Xuân ở miền Bắc và các tỉnh Nam bộ. Tổng nhu cầu urea trên thị trường trong 02 tháng cuối năm dự kiến vào khoảng 410.000 tấn, tập trung chủ yếu ở thị trường chính là Tây Nam Bộ 300.000 tấn. Hiện tại ở khu vực này, vụ Hè Thu đã kết thúc. Tuy nhiên, do bị ngập lũ đặc biệt ở vùng tứ giác Long Xuyên nên vụ Đông Xuân sẽ đến muộn, nhu cầu phân bón hiện đang trong giai đoạn thấp điểm. Lượng phân bón tồn lưu thông trên thị trường ở mức cao, riêng phân đạm khoảng hơn 200 ngàn tấn, trong đó một nửa là đạm Phú Mỹ. Dự kiến nguồn cung urea bao gồm cả lượng hàng tồn, sản xuất trong nước và nhập khẩu từ nay tới cuối năm sẽ vào khoảng 600.000 tấn, đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Ước tính của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NN&PTNT, năm 2012 cả nước cần nhập khẩu 2,63 triệu tấn phân bón để đảm bảo nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Năm 2012, nhu cầu phân bón cả nước ước khoảng 9,88 triệu tấn. Khả năng sản xuất trong nước theo tính toán của Bộ Công Thương là 7,25 triệu tấn. Như vậy nhu cầu phân bón còn thiếu cần phải NK vào khoảng 2,63 triệu tấn. Hiện tại, trong khi nguồn cung sản xuất phân bón tăng thì nhu cầu sử dụng phân bón đang có xu hướng giảm do miền Bắc đang trong giai đoạn thu hoạch lúa vụ mùa, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung đang trong mùa mưa lũ nên nhu cầu phân bón chưa cao. Hiện giá phân bón trên thị trường trong nước giảm 100-150 đồng/kg so với tháng 9. Giá phân urê thị trường miền Bắc ổn định ở mức 10.100 đồng/kg. Đặc biệt, cùng với Nhà máy đạm Phú Mỹ, Nhà máy đạm Cà Mau sẽ đi vào hoạt động cuối năm 2011 sẽ nâng tổng sản lượng đạm urê sản xuất trong nước lên 1,5 triệu tấn/năm, góp phần đảm bảo 60% nhu cầu đạm urê trong nước và giúp bình ổn thị trường phân bón những tháng cuối năm. So với đầu tháng 12-2010, hiện giá nhiều loại phân bón như Urê, DAP, NPK... Đã giảm 40.000-60.000 đồng/bao/50kg. Tại nhiều cửa hàng vật tư nông nghiệp đại lý cấp 1 ở TP Cần Thơ, giá phân Urê Phú Mỹ và Urê Trung Quốc ở mức 420.000-423.000 đồng/bao; DAP Trung Quốc loại hạt đen 685.000 đồng/bao, hạt vàng sọc đỏ: 698.000 đồng/bao, hạt xanh 710.000 đồng/bao. Giá phân NPK 16-16-8 Việt Nhật: 460.000 đồng/bao, NPK 16-16-8 Hàn Quốc: 467.000 đồng/bao, NPK 16-16-8 Philippines: 505.000 đồng/bao; NPK Đầu Trâu 20-20-15 loại cao cấp: 630.000 đồng/bao. Còn giá phân kali khoảng 540.000-550.000 đồng/bao, Lân Đầu bò 220.000 đồng/bao, lân Long Thành 125.000 đồng/bao. Theo giới kinh doanh, giá nhiều loại phân bón giảm, do nhu cầu tại các địa phương trồng lúa ĐBSCL đã giảm so với trước, nhiều nơi nông dân đã bón phân đợt 2 và đợt 3 cho lúa đông xuân 2010- 2011. Nhiều cửa hàng bán lẻ phân bón tại các tỉnh, thành ĐBSCL không đẩy mạnh lấy hàng vào như các tháng trước, mà chủ động giảm giá để giải tỏa lượng hàng tồn kho và xoay vòng vốn. Mặc dù giá nhiều loại phân bón tại các đại lý cấp 1 đã giảm, nhưng giá bán lẻ đến tay nông dân vẫn ở mức cao. Cụ thể, tại nhiều cửa hàng vật tư nông nghiệp đại lý cấp 2, cấp 3 ở TP Cần Thơ, giá các loại phân Urê ở mức 440.000-450.000 đồng tiền mặt, phân DAP Trung Quốc tiền mặt: 730.000-750.000 đồng/bao, tùy loại. Còn giá bán nhiều loại phân NPK, lân, kali cũng cao hơn khoảng 20.000 đồng/bao so với giá bán tại đại lý cấp 1. Theo phản ánh của nhiều nông dân ở TP Cần Thơ, với điều kiện giao thông ngày càng phát triển, họ dễ dàng tìm đến các đại lý cấp 1 để mua phân bón, nhưng không đủ tiền mặt để thanh toán ngay. Do vậy, nhiều người thiếu vốn sản xuất phải chấp nhận mua phân bón với mức giá tăng thêm 20.000-30.000 đồng/bao, tùy loại. Anh Nguyễn Văn Tỷ ở phường Long Hưng, quận Ô Môn, đang sản xuất 10 công lúa, cho biết: Nhiều cửa hàng vật tư nông nghiệp ở gần nhà tôi đang bán phân Urê Phú Mỹ 440.000 đồng/bao tiền mặt, nhưng không có tiền, tôi đành mua thiếu đến cuối vụ trả với giá 460.000 đồng/bao và mua phân DAP Trung Quốc, loại hạt đen giá tới 745.000 đồng/bao”. Ông Huỳnh Văn Vững ở ấp Định Phước, xã Định Môn, huyện Thới Lai, có 15 công trồng lúa, giữa tháng 12-2010 ông đã mua phân về bón đợt đầu cho lúa đông xuân 2010-2011, giá phân DAP 730.000 đồng/bao và Urê ở mức trên 430.000 đồng/bao. Ông Vững cho rằng, giá phân bón bị đẩy lên cao do nông dân mua qua nhiều trung gian, đa phần người trồng lúa đều thiếu vốn sản xuất, phải mua vật tư nông nghiệp gối vụ ở các đại lý, nên giá rất cao. Trên thực tế, các loại vật tư nông nghiệp khi đến tay nông dân ở TP Cần Thơ và nhiều tỉnh ĐBSCL đã qua ít nhất 2-4 khâu trung gian. Chị Thái Thị Phượng, chủ cửa hàng vật tư nông nghiệp Tám Phượng ở phường Long Hưng, quận Ô Môn, TP Cần Thơ, cho biết: Cửa hàng tôi lấy phân bón từ các doanh nghiệp và đại lý cấp 1 ở khu vực trung tâm quận Ô Môn. Nhưng tôi được biết vật tư nông nghiệp của nhiều doanh nghiệp và đại lý cấp 1 này không mua trực tiếp từ các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu phân bón trong nước, mà phải mua lại của các đầu mối cung cấp phân bón sỉ ở TP Hồ Chí Minh”. Theo chị Phượng, do hạn chế về tài chính, các cửa hàng bán lẻ thường lấy phân bón với một số lượng cân đối theo nhu cầu của người dân địa phương. Các cửa hàng bán lẻ mua hàng vào với giá cao thì phải bán ra với giá cao. Đôi khi giá bán ở các nhà phân phối sỉ và đại lý cấp 1 đã giảm, nhưng giá bán tại cửa hàng bán lẻ chưa giảm ngay vì còn lượng hàng tồn kho trước đó đã mua với giá cao.Ngoài ra, tình trạng kinh doanh phân bón theo kiểu mua đứt, bán đoạn” của các nhà sản xuất và nhập khẩu phân bón cho các đại lý đã tạo điều kiện cho việc tăng giá. Trong khi các nhà sản xuất, doanh nghiệp không chịu trách nhiệm về giá cả và chất lượng của các loại phân bón khi đến tay người dân. Thêm vào đó, việc kiểm soát chất lượng, giá cả của các ngành chức năng chưa chặt đã tạo nên rất nhiều hệ quả, mà nông dân là người chịu thiệt nhiều nhất. Thiết nghĩ, bình ổn giá phân bón và tổ chức lại mạng lưới phân phối trên thị trường là điều rất cần thiết, để nông dân an tâm sản xuất, tránh những thiệt hại không đáng có khi xảy ra tình trạng phân bón kém chất lượng, hàng giả... Mặt khác, các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu phân bón phải có trách nhiệm hơn đối với nông dân. Nguồn: CTO. Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón VN, cho biết: Cách đây 3 tháng, giá thế giới của phân urê 850 USD/tấn, hiện nay còn trên 200 USD/tấn; phân DAP từ 1.100 USD - 1.200 USD/tấn, giảm còn 500 USD/tấn; phân SA từ 440 USD/tấn giảm còn 145 USD/tấn. Tương tự, giá nguyên liệu phục vụ sản xuất phân bón cũng giảm như lưu huỳnh từ 1.000 USD/tấn giảm còn 50 USD/tấn. Giá phân bón trong nước hiện nay cũng giảm đáng kể. Nhu cầu phân bón cho sản xuất vụ Đông - Xuân năm nay chỉ khoảng 3,1 triệu tấn, giảm gần 1 triệu tấn so với các năm trước. Trong đó, các doanh nghiệp trong nước đã sản xuất được phân NPK bảo đảm nhu cầu; còn lại chỉ phải nhập khẩu 50% phân u rê và 100% phân DAP, SA, ka li. Đó là dấu hiệu đáng mừng đối với người nông dân, nhưng DN sản xuất phân bón thì sập tiệm do lượng phân bón nhập từ thời kỳ giá đắt còn tồn kho quá nhiều. Theo báo cáo không chính thức của các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón và Hiệp hội Phân bón Việt Nam, lượng phân urê, DAP, kali và SA nhập khẩu còn tồn kho tổng cộng 1 triệu tấn. Trong đó, u rê là 388.000 tấn; DAP là 161.000 tấn; SA là 210.000 tấn và ka li là 241.000 tấn. Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón, nếu tính cả phân NPK sản xuất trong nước, thì con số tồn có thể lên tới 2 triệu tấn. Nguyên nhân khiến hàng tồn đọng nhiều và giá xuống thấp là do ảnh hưởng chung của khủng hoảng tài chính thế giới. Tuy nhiên, nguyên nhân chính khiến nhiều doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh phân bón ở trong thế tiến thoái lưỡng nan là do không lường được sự biến động của thị trường. Khi phân bón sốt giá, nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đã nhận định rằng mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng và có một mặt bằng giá mới, vì vụ Đông - Xuân của nước ta trùng với một số nước sử dụng lượng phân bón nhiều như Ấn Độ, Trung Quốc..., nên các doanh nghiệp đã tìm cách mua phân bón và nguyên liệu sản xuất dự trữ ngay cả ở thời điểm giá cao chót vót. Với giá cả các loại phân bón như hiện nay, nhiều doanh nghiệp phân bón đang bị lỗ nặng, doanh nghiệp lỗ nhiều nhất lên tới gần một nghìn tỷ đồng. Vì vậy, dù đang tồn đọng nhiều, nhưng giá phân bón trong nước vẫn còn ở mức cao so với thị trường thế giới. Theo tính toán, giá phân u rê cao hơn 1.500-2.300 đồng/kg; phân DAP, ka li cao hơn từ 1.500-5.500 đồng/kg so với thị trường thế giới. Đối với các mặt hàng phân NPK được sản xuất hoàn toàn ở trong nước, hiện chỉ mới giảm giá khoảng 20% dù giá nguyên liệu giảm đến 60%. Đó là chưa kể khó khăn do nông dân không bán được lúa nên không có tiền mua phân bón. Để giải cứu các doanh nghiệp, Hiệp hội Phân bón Việt Nam đã kiến nghị Chính phủ các biện pháp như giãn nợ, giảm thuế thu nhập, giảm lãi suất ngân hàng cho doanh nghiệp. Vừa qua, Bộ Tài chính đã chính thức bỏ thuế tuyệt đối thuế xuất khẩu các loại phân bón 4.000-5.000 đồng/kg tạo lối thoát cho các doanh nghiệp. Bộ NN&PTNT cũng đã đề nghị Chính phủ chỉ đạo hop quy, phan bon ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón giãn nợ đối với khoản vay dùng để nhập khẩu lượng phân đang tồn kho đến hết quý I-2009 và tiếp tục cho vay để doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên, giải pháp hiệu quả nhất là Nhà nước nên tập trung hỗ trợ cho nông dân vượt qua những khó khăn thông qua các chương trình kinh tế xã hội, thành lập quỹ bình ổn giá cả…, từ đó gián tiếp kích cầu thị trường phân bón. Ngoài ra, cơ quan chức năng cần phải chấn chỉnh việc cấp giấy phép sản xuất phân bón; đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, quy trình canh tác tiên tiến vào sản xuất để nông dân sử dụng phân bón hiệu quả nhất.


III. Phân bón Đầu Trâu” chinh phục thị trường hợp quy Myanmar


Ông Đỗ Thanh Lam, Phó Cục trưởng Cục Quản lý thị trường, cho biết: Năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013, lực lượng quản lý thị trường kiểm tra 5.372 vụ, xử lý 1.390 vụ với tổng số tiền phạt trên 17,2 tỷ đồng, tịch thu 917 tấn phân bón các loại. Không ít vụ phân bón giả, kém chất lượng quy mô lớn bị phát hiện, đã chuyển hồ sơ sang cơ quan công an khởi tố. Tuy nhiên, kết quả bắt giữ như trên chưa phản ánh đúng thực tế vi phạm. Hàng trăm tấn phân bón giả Từ lời khai ban đầu của các đối tượng, sáng 23-6 lực lượng chức năng kiểm tra cơ sở số C4/20D ấp 3 đường Lê Đình Chi, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh. Đây là nơi hoàn tất công đoạn đóng bao có mẫu mã bắt mắt như ngoài bao bì quảng cáo nhập khẩu từ Israel, Công ty cổ phần Vinacam...” để lừa nông dân. Không những thế, lần theo các hóa đơn, chứng từ cơ quan chức năng xác định đã có một lượng lớn phân bón giả đã được tung ra thị trường. Theo đó, những nơi sản phẩm phân bón giả này được đưa về nhiều nhất là các tỉnh Đăk Lăk, Đồng Nai và một số đại lý trên địa bàn TPHCM. Chỉ riêng tại kho C4/20D ấp 3 cơ quan chức năng đã phát hiện khối lượng phân bón giả ước tính gần 328 tấn. Bao bì nhái các thương hiệu lớn ảnh nhỏ Ông Lý Ngọc Thắng - Đội trưởng 3A Chi cục QLTT TPHCM cho biết, hiện đã triệt phá được 3 ổ liên quan đến việc làm phân bón giả. Hàng chục chiến sĩ Đội 3A đã liên tục làm việc tại 3 điểm ở quận Bình Tân, Tân Phú, Q11 phát hiện được tổng cộng trên 550 tấn phân bón giả các loại. Tuy nhiên, đây chưa phải là con số cuối cùng. Hiện cơ quan QLTT và PC15 tiếp tục khẩn trương điều tra vụ làm phân bón giả nói trên để làm cơ sở xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Trước mắt, toàn bộ số hàng sẽ bị tạm giữ để điều tra làm rõ. Ngày 21/11, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Nông đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với bà Vũ Thị Ngọc Bích 45 tuổi – là Giám đốc Công ty Sản xuất thương mại và dịch vụ Việt Nhật, trụ sở tại tổ dân phố 4, thị trấn Ea TLing, huyện Cư Jút về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả…”. Theo kết quả điều tra, trong năm 2003, Công ty Việt Nhật do Vũ Thị Ngọc Bích làm giám đốc, trực tiếp quản lý điều hành đã có những sai phạm trong việc thực hiện các quy định, quy trình sản xuất phân bón, không sử dụng máy móc dây chuyền để sản xuất, không xây dựng phòng thí nghiệm, hợp đồng với đơn vị có chức năng để thực hiện kiểm tra chất lượng nguyên liệu đầu vào, chất lượng sản phẩm sản xuất ra mà vẫn bán ra thị trường; ủy quyền cho người không có trình độ chuyên môn theo quy định để trực tiếp điều hành sản xuất phân bón… Với thủ đoạn đó, từ tháng 3 đến tháng 8/2013, Công ty Việt Nhật đã sản xuất và xuất ra thị trường với số lượng 118,8 tấn phân bón kém chất lượng, trong đó có 31 tấn phân bón đã bán cho nguời dân được cơ quan điều tra xác định đều là phân bón giả. Toàn bộ số phân bón này sau khi được người dân mua về sử dụng một thời gian ngắn thì thấy hiện tượng cây vàng lá, chết dần. Để che mắt cơ quan chức năng, Công ty Việt Nhật đã kê khai các hóa đơn giá trị gia tăng số 0026, 0027, 0028 thể hiện việc mua nguyên liệu sản xuất phân bón NPK của chi nhánh Công ty Việt Nhật Đắk Lắk do bà Lê Thị Thúy làm giám đốc. Tuy nhiên, toàn bộ hóa đơn trên đều là hóa đơn xuất khống, bất hợp pháp được bà Bích sử dụng để kê khai nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất nhằm che giấu việc sản xuất phân bón kém chất lượng của Công ty Việt Nhật… Hiện vụ việc đang được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Nông tiếp tục làm rõ. Làm thế nào để nhận biết, mua và sử dụng phân bón chất lượng để tránh thiệt hại khi vụ lúa HT đang vào mùa? NNVN có cuộc trao đổi với TS Chu Văn Hách, Viện Lúa ĐBSCL. TS Chu Văn Hách - Trưởng Bộ môn Phân bón và Kỹ thuật canh tác, Viện Lúa ĐBSCL Thưa ông, vì sao thời gian qua khuyến cáo sử dụng phân bón theo 4 đúng” vẫn chưa được nhiều ND hưởng ứng, tuân thủ? Trong các loại vật tư đầu vào, phân bón được nông dân đặc biệt quan tâm vì nó gia tăng năng suất cao nhất. Tuy nhiên phân bón chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất khi áp dụng theo 4 đúng” nghĩa là bón đúng loại, đúng liều lượng, đúng thời gian và đúng phương pháp, hay nói một cách khác là bón phân theo nhu cầu của cây”. Vấn đề nông dân chưa áp dụng rộng rãi theo 4 đúng, nguyên nhân chính là họ còn quá lạm dụng phân bón, đặc biệt là phân đạm. Việc sử dụng phân đơn urê + DAP/lân + kali để tự phối trộn thì chi phí sẽ thấp hơn so với bón phân hỗn hợp NPK. Nhưng việc sử dụng phân đơn ngày càng bộc lộ các mặt trái vì chỉ có số ít nông dân có trình độ mới phối trộn được tỷ lệ thích hợp. Còn đại đa số vẫn chưa tính toán được tỷ lệ phối trộn phù hợp theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây, nên dẫn tới tình trạng là thừa loại này nhưng lại thiếu loại khác, hiệu quả đầu tư phân bón không cao. Xu hướng sử dụng phân bón của các nước trên thế giới trong giai đoạn hiện tại thường thiên về SX và sử dụng các loại phân thế hệ mới như phân hỗn hợp NPK chuyên dùng. Loại phân này có bổ sung các chất trung, vi lượng hoặc phối trộn với một số hóa chất để giảm thất thoát và nâng cao hiệu quả sử dụng phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của cây và loại đất. Ưu điểm là thuận tiện và dễ dàng cho người sử dụng, nếu bón dư chút ít cũng không bị ảnh hưởng do dư thừa phân đạm như khi bón phân đơn. Mặt khác, phân chuyên dùng này sẽ cung cấp đầy đủ các dưỡng chất cần thiết cho cây theo từng giai đoạn sinh trưởng. Cây sẽ phát triển cân đối và tốt hơn do vậy sẽ tăng sức đề kháng với sâu bệnh hại. Gần đây, phân bón NPK chuyên dùng thế hệ mới của VN đang theo xu thế chung của thế giới, vì hiệu quả, tiện lợi và khắc phục được những nhược điểm của bón phân đơn. Thực tế vụ lúa HT ở ĐBSCL, nôgn dân thường sử dụng phân bón như thế nào? Ông có ý kiến nhận xét gì? Vụ HT ở ĐBSCL do điều kiện thời tiết bất lợi ngay từ đầu vụ như nắng nóng, nhiệt độ cao, pH đất thấp nên lân bị các cation sắt, nhôm cố định, thời vụ cập rập nên thường gặp ngộ độc hữu cơ…do đó cây lúa kém phát triển ngay từ đầu vụ. Phần lớn nông dân không biết rõ nguyên nhân lúa vì sao không phát triển được. Hễ thấy lúa không phát thì suy nghĩ đầu tiên của họ là bón thêm phân đạm. Thực tế nông dân bón lượng đạm ở vụ HT còn cao hơn so với vụ ĐX, nhưng lại ít quan tâm tới bón tăng lượng lân. Trong khi vụ HT đất thường thiếu lân. Một điều nghịch lý là nông dân sử dụng dư phân đạm, đến khi cây lúa quá tốt thì họ lại sử dụng kali để bón thêm nhằm hạn chế đổ ngã và hạn chế sâu bệnh. Kiểu bón phân như vậy không hiệu quả, vì đã tốn tiền do bón dư đạm rồi lại tốn thêm tiền bón kali để giải độc cho cây. Trong vụ HT năng suất lúa chỉ bằng 70% thậm chí là 50% so với vụ ĐX. Trong điều kiện bình thường để SX được 1 tấn lúa thì cây phải hút và tích lũy được 15 kg N + 2,6 kg P và 15 kg K, vậy thì lượng phân bón cho lúa ở vụ HT sẽ thấp hơn so với vụ ĐX. Tuy nhiên, do vụ HT có nhiều yếu tố trong đất ngộ độc phèn, hữu cơ cản trở sinh trưởng phát triển của cây lúa nên cần phải có giải pháp hạn chế các yếu tố này ngay từ đầu vụ như dùng nước rửa ruộng nhiều lần, bón vôi và lân sớm với lượng cao hơn hoặc sử dụng các dạng lân có phối trộn với hợp quy, phân bón hoạt chất Avail để hạn chế sự cố định lân của sắt nhôm. Đối với vụ HT nên bón nặng lân ở đầu vụ một mặt cung cấp thêm lân cho cây phát triển bộ rễ, mặt khác giúp tăng pH, lượng đạm nên giảm so với vụ ĐX. Tác dụng phân bón NPK trên đất phù sa và tùy theo từng tiểu vùng ở ĐBSCL cho thấy nên sử dụng phân như thế nào cho đúng? Đối với lúa ở ĐBSCL phân bón chủ yếu là các nguyên tố đa lượng N- P-K dung để bón xuống đất, còn tỷ lệ giữa các dưỡng chất này phụ thuộc vào từng tiểu vùng khác nhau ví dụ cũng là vùng phù sa nhưng vùng phù sa đầu nguồn một phần của An Giang và một phần của Đồng Tháp nằm cặp 2 sông Tiền và Hậu bón khác so với vùng phù sa Tây sông Hậu. Tuy nhiên có một điểm chung là kali không có tác dụng làm tăng năng suất lúa kể cả trên đất phù sa và đất phèn. Do đó kali chỉ cần đầu tư ở mức thấp để duy trì và ổn định kali trong keo đất. Dù vậy, nếu bón kali ở mức cao sẽ hạn chế khả năng hút một số nguyên tố trung và vi lượng khác thậm chí là hạn chế cả khả năng hút đạm của cây vì kali có tính đối kháng ion. Trong vụ HT, công thức phân bón cho 1 ha vùng phù sa đầu nguồn là: 70 - 90 kg N + 40 - 50 kg P2O5 + 20 - 30 kg K2O; Tương ứng với vùng phù sa Tây sông Hậu là: 60 - 80 kg N + 40 - 60 kg P2O5 + 20 - 30 kg K2O. Tuy nhiên đây chỉ là công thức chung không thể áp dụng cho tất cả các chân ruộng, mà cần có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với đồng ruộng của mình. Lưu ý vào giai đoạn bón phân đợt 2 18 - 25 ngày sau sạ và đợt 3 38 - 45 ngày sau sạ nên quan sát màu lá tốt nhất là sử dụng bảng so màu lá để quyết định lượng phân đạm cho phù hợp, nếu lá xanh đậm thì giảm đạm, là vàng thì tăng thêm đạm. Gần đây, tình trạng phân bón kém chất lượng báo động, có tới 50% phân NPK 20-20-15 kém chất lượng hàm lượng dinh dưỡng không như công bố, thậm chí SX phân giả, nhất là các loại phân hữu cơ, phân bón lá, phân vi sinh… Làm thế nào để nông dân nhận biết, tránh rơi vào ma trận” hàng giả và kém chất lượng? Tình trạng phân bón kém chất lượng, hàng giả, hàng nhái tràn lan làm cho nông dân hoang mang không biết đâu là phân thật đâu là phân giả. Cả vụ canh tác cây trồng nếu chọn không đúng vật tư đầu vào sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thu nhập. Trong lúc chờ đợi Nhà nước có biện pháp chế tài mới xử lý hàng giả, bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, chúng tôi xin khuyến cáo bà con lưu ý khi chọn và mua phân bón: Nên chọn các loại phân bón với thương hiệu trên thị trường được SX từ các Cty có uy tín và chọn các đại lý có uy tín thì quyền lợi của nông dân mới được đảm bảo. Xin cảm ơn ông! .. Tại cơ quan điều tra, Lương Huệ Đạt khai nhận toàn bộ số phân kali giả bị Đội 3A QLTT thành phố thu giữ là do Đạt sản xuất bằng cách mua phân bón kém chất lượng trên thị trường cùng hóa chất ở chợ Kim Biên về xay nhuyễn, pha trộn lại sau đó đóng bao, dán nhãn mác của các công ty có uy tín rồi tung ra thị trường với giá 4.200.000đồng/tấn. Đến thời điểm bị bắt, Đạt đã kịp tiêu thụ khoảng 100 ngàn tấn. Mới đây, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ NN&PTNT rà soát cân đối cung cầu mặt hàng phân bón cho vụ Đông Xuân 2012-2013 và cả năm 2013. Theo đó, trong tháng 12, Tổng công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí có thể cung cấp thị trường 70.000 tấn urê, Nhà máy đạm Cà Mau 60.000 tấn, Nhà máy đạm Ninh Bình 45.000 tấn... Với năng lực sản xuất hiện tại của các đơn vị trong nước, cùng lượng hàng tồn tới thời điểm tháng 11/2012 và kế hoạch nhập khẩu của DN, lượng cung” phân bón cung ứng thời gian tới sẽ đủ đáp ứng cho vụ Đông Xuân tại các tỉnh phía Nam tháng 12/2012 và chuẩn bị cho vụ Đông Xuân tại khu vực phía Bắc đầu năm 2013. Theo TS Nguyễn Đăng Nghĩa, GĐ Trung tâm Nghiên cứu đất - phân bón & môi trường phía Nam Viện Thổ nhưỡng - nông hóa, chưa khi nào thị trường phân bón ở VN nhiễu loạn như bây giờ, với khoảng 5.000 loại phân đang lưu hành. Bên cạnh những sản phẩm thực sự chất lượng là vô số mặt hàng phân bón có chất lượng thuộc loại trời ơi”, được làm ra từ những xưởng SX 2 cuốc 2 xẻng”, bán với giá rẻ như bèo. Nông dân không thể đánh giá được chất lượng, cứ thấy giá rẻ là mua nên sau khi sử dụng mới biết đã lâm cảnh tiền mất tật mang”. Sự thể này gây mất lòng tin trong người tiêu dùng và làm ảnh hưởng đến các nhà SXKD phân bón có uy tín. Phân giả, phân nhái thì các ngành chức năng còn bắt, xử lý được; còn đối với loại phân kém chất lượng thì bó tay. Thiệt thòi luôn thuộc về nông dân và những đơn vị làm ăn chân chính”, TS Nguyễn Đăng Nghĩa nói. Trước thực tế đó, vào tháng 6/2013, Cty Vinacafe Quy Nhơn và Cty Biffa đã bắt tay hợp tác làm thành 1 liên doanh vừa SX vừa cung ứng các loại phân bón NPK với mục tiêu đưa sản phẩm phân bón chất lượng cao đến với nông dân. Theo đó, Cty Vinacafe Quy Nhơn là đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm nguyên liệu đầu vào, đồng thời lo dịch vụ đầu ra. Cty Biffa là đơn vị chịu trách nhiệm SX. Sản phẩm được mang tên Vinacafe Quy Nhơn”. Dây chuyền SX phân bón của liên doanh Biffa - Vinacafe Quy Nhơn Đầu năm 2013, xác định yêu cầu về nhu cầu sản phẩm phân bón trên thị trường không những phải đạt các hàm lượng theo công bố mà còn phải hội tụ các yếu tố sắc sảo, nhanh tan, đồng nhất, chất lượng ổn định… Cty Biffa quyết định đầu tư lắp đạt dây chuyền SX công nghệ cao. Sau khi học tập kinh nghiệm từ các đơn vị SX phân bón uy tín trong và ngoài nước, được sự hỗ trợ của Bộ KH-CN và Sở KH-CN Bình Định, Cty Biffa tiến hành đề tài SX phân bón NPK 1 hạt bằng công nghệ tạo hạt hơi nước. Hiện Cty đã hoàn thành hệ thống thiết bị máy móc hiện đại với công suất 50.000 tấn/năm; trình độ công nghệ tương đương với công nghệ nhập khẩu, sản phẩm làm ra đạt các yêu cầu cao cấp như nâng cao độ bóng, tính tan, sự đồng nhất về tỷ lệ hàm lượng, nâng cao tổng hàm lượng dinh dưỡng đạm lân, kali… Ông Nguyễn Nhật, GĐ Cty Vinacafe Quy Nhơn cho biết: Sau khi 2 bên ký kết hợp đồng liên doanh, chúng tôi đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo tại các tỉnh Tây Nguyên để giới thiệu sản phẩm liên doanh đến với các đơn vị SX cà phê, tiêu. Sản phẩm của liên doanh nhanh chóng đi vào thị trường, số lượng phân bón SX ra và tiêu thụ liên tục tăng. Qua 6 tháng thâm nhập thị trường, chúng tôi đã tiêu thụ được 3.000 tấn phân bán các loại”. Theo ông Võ Tuấn Toàn, GĐ Cty Biffa, sản phẩm của liên doanh SX phân bón đang lưu hành trên thị trường gồm các loại: NPK 16-16-8-13S, NPK 16-10-6, NPK 17-7-18-13S+BO, NPK 20-5-6-13S-TE, phân đạm hạt vòng… Qua sử dụng, những đơn vị và nông dân tiêu thụ sản phẩm phân bón liên doanh Biffa - Vinacafe rất hài lòng về chất lượng lẫn giá thành phải chăng. Ông Lê Văn Hiển, Trưởng phòng Nông nghiệp, Cty TNHH MTV Cà phê 734 xác nhận: Trước tình hình thị trường phân bón loạn xạ cả lên, nhiều loại phân giả, kém chất lượng làm cho cà phê và tiêu chết hàng loạt khiến chúng tôi phải dè dặt trong việc chọn lựa sản phẩm để bón cho diện tích cà phê của mình. Sau 1 thời gian sử dụng, chúng tôi khẳng định phân bón được SX từ liên doanh Biffa và Vinacafe là sản phẩm đáng tin cậy”. Phân bón liên doanh Biffa - Vinacafe không chỉ hấp dẫn với cây cà phê và cây tiêu ở Tây Nguyên mà còn rất hít” đối với nông dân các vùng đồng bằng. Ông Phan Sỹ Hùng, Phó phòng NN-PTNT huyện Phù Cát Bình Định cho hay: Sản phẩm của liên doanh còn có loại phân chuyên dụng cho cây lúa rất hiệu quả. Ngoài ra, cây trồng cạn chủ lực trên địa bàn huyện Phù Cát là đậu phộng khi được bón phân của liên doanh cũng phát huy hết tiềm năng năng suất. Chất lượng chẳng kém các loại phân khác mà giá thành luôn rẻ hơn 15% nên nông dân rất tin dùng”. Ông Võ Tuấn Toàn, GĐ Cty Biffa cho biết: Từ nay đến cuối năm, chúng tôi sẽ SX hàng trộn cho Hoàng Anh Gia Lai 1.000 tấn để bón cho cây mía; SX 1.500 tấn phân 1 màu cho cây cà phê mùa khô; SX 1.000 tấn phân NPK mùa khô cung ứng cho các đại lý tại Tây Nguyên. Với tốc độ tiêu thụ mạnh như thế này, kế hoạch năm 2014 chúng tôi sẽ tiêu thụ khoảng 10.000 tấn và sang năm 2015 con số này sẽ tăng lên 20.000 tấn các loại phục vụ cho các loại cây cà phê, tiêu, mía, lúa…”. Cty Vinacafe Quy Nhơn là đơn vị duy nhất có 100% vốn Nhà nước có nhiệm vụ cung ứng các loại phân bón cho các đơn vị trong và ngoài ngành với tiêu chí đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, chúng tôi còn có trách nhiệm làm bình ổn giá phân bón trên địa bàn miền Trung - Tây Nguyên”, ông Nguyễn Nhật, GĐ Cty Vinacafe Quy Nhơn. Hồng Văn Nhà máy đạm Phú Mỹ sẽ tung phân urea để làm giảm nhiệt thị trường phân bón-Ảnh: Hồng Văn. Cung dư giá vẫn tăngNông dân các tỉnh ĐBSCL hiện nay đang bước vào gieo sạ vụ lúa đông xuân. Trong hai tuần qua, mỗi khi họ tới đại lý cấp 1, cấp 2 mua phân bón , thì lại thấy giá phân tăng vù vù, mặc dù dự báo của ngành nông nghiệp lẫn các doanh nghiệp kinh doanh phân bón đều cho rằng nguồn cung phân bón trên thị trường dồi dào. Trong những ngày đầu tháng 12, giá phân bón trên thị trường tăng 10-15% so với đầu tháng 11, tùy theo loại nhưng bình quân giá phân tăng thêm 500 - 1.000 đồng/kg.Tại An Giang, giá phân urea của Nhà máy đạm Phú Mỹ và của Trung Quốc bán lẻ tăng hơn 1.000 đồng/kg, đạt mức 6.600 đồng/kg; còn phân urea của Nga lên 6.800 đồng/kg. Phân DAP cũng tăng giá mạnh, loại nhập của Trung Quốc đạt 6.800 đồng/kg, còn DAP của Philippines vọt lên 12.200 đồng/kg. Nhiều loại phân khác như NPK, kali cũng đều tăng giá.Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhu cầu phân bón năm 2009 không biến động nhiều so với năm ngoái. Dự kiến nhu cầu phân bón cho nông nghiệp sẽ vào khoảng 8 - 8,5 triệu tấn phân bón các loại. Trong đó, urea cần khoảng 1,7 triệu tấn; NPK cần 2,5 - 3 triệu tấn; phân lân 1,7 triệu tấn; kali 800.000 tấn; DAP cần 750.000 tấn và phân bón SA cần 750.000 tấn. Trong khi đó. Phân urea sản xuất trong nước năm 2009 đạt khoảng 950.000 tấn, còn lại phải nhập 750.000 tấn. Phân DAP dự kiến sản xuất được 150.000 – 160.000 tấn, còn lại phải nhập khẩu khoảng 600.000 – 650.000 tấn. Riêng phân lân và phân phức hợp NPK thì các nhà máy trong nước hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu, thậm chí còn dư thừa.Lượng phân nhập khẩu trong 11 tháng qua cũng tăng mạnh so với năm ngoái, với 3,9 triệu tấn, tăng 35% so với cùng kỳ năm ngoái; riêng urea hơn 1,2 triệu tấn, tăng gấp đôi so với cùng kỳ. Như vậy loại phân chính là urea xem như sản xuất trong nước và nhập khẩu dư thừa so với nhu cầu.Một số doanh nghiệp nhập khẩu phân tham gia giao dịch tại chợ đầu mối phân bón Trần Xuân Soạn, TPHCM, cho biết họ tăng mạnh nhập khẩu là do khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu, khiến trong gần cả năm qua, giá phân trên thị trường thế giới giảm. Cụ thể 11 tháng, sản lượng phân nhập cả nước tăng 35% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng kim ngạch thì giảm 15%.Ăn theo giá lúa gạo Phân bón nhập khẩu tăng giá một phần vì tỷ giá ngoại tệ tăng và khó mua đô la Mỹ của nhà nhập khẩu-Ảnh: KL. Vài năm gần đây, gần như một quy luật là cứ giá lúa gạo tăng cao thì sau đó, giá phân bón leo thang, bất kể nguồn cung trên thị trường dư thừa. Năm ngoái cũng vậy, sau cơn sốt giá lúa gạo vào cuối tháng 4 thì sau đó giá phân bón lên cơn sốt mà có lúc phân DAP vượt qua 20.000 đồng/kg. Một doanh nghiệp nhập khẩu phân bón cỡ lớn cho biết tỷ giá ngoại tệ tăng từ cuối tháng 11 đã làm tăng chi phí cho nhập khẩu phân bón, hơn nữa, việc thương thảo mua ngoại tệ để trả cho nước ngoài khi nhập phân cũng khó khăn, khiến các doanh nghiệp kinh doanh phân bón phải tính toán lại giá bán phân cho phù hợp.Đó là nhà nhập khẩu, còn các đại lý buôn bán phân ở tỉnh, huyện thì có cái nhìn thực tế hơn. Họ cho rằng giá lúa gạo tăng cao, nên nông dân rủng rẻng tiền bạc để mua phân tích trữ đầu tư cho vụ sản xuất đông xuân đang gieo sạ ở ĐBSCL hiện nay. Hai lý do này diễn ra trong cùng một thời gian đã kích hoạt giá phân bón tăng mạnh, mà theo ông Nguyễn Đình Hạc Thúy, Phó chủ tịch Hội phân bón Việt Nam, đã tạo nên cơn sốt ảo trong ngắn hạn trên thị trường.Tung hàng để dập sốt Trước năm 2004, khi Nhà máy đạm Phú Mỹ chưa đi vào hoạt động, Việt Nam gần như phụ thuộc hoàn toàn vào phân urea nhập khẩu, loại phân hợp quy, phân bón không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp, do vậy hàng năm thường xảy ra các đợt biến động giá khiến nông dân lao đao.Tuy nhiên, sau năm 2004, tình hình đã thay đổi sau khi Nhà máy đạm Phú Mỹ hoạt động và đáp ứng 45% nhu cầu của thị trường phân urea.Với năng lực sản xuất hơn 750.000 tấn urea cùng với lượng phân nhập khẩu, Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí có Nhà máy đạm Phú Mỹ được xem là con át chủ bài của nhà nước trong giữ nhịp thị trường phân urea. Ông Phan Đình Đức, Tổng giám đốc cho biết doanh nghiệp đã đưa lượng hàng lớn urea Phú Mỹ tới các kho trung chuyển vùng miền, cung ứng đủ và kịp thời nhu cầu của nông dân, góp phần làm hạ nhiệt giá phân bón đang tăng ảo trên thị trường.Hiện doanh nghiệp này xây dựng được hệ thống phân phối với đầu mối là 5 công ty, 42 cửa hàng trực thuộc và 58 đại lý với hơn 3.650 cửa hàng tại các vùng miền trên cả nước. Ông Đức cho biết thêm, trong năm nay, doanh nghiệp dự kiến sản xuất 750.000 tấn urea và cùng với lượng nhập khẩu, đưa lượng bán ra thị trường khoảng 1 triệu tấn phân bón.Còn Tổng công ty hóa chất Việt Nam Vinachem, nhà sản xuất phân bón lớn hiện nay thì cho rằng mình còn tồn kho hơn 660.000 tấn để tung ra thị trường. Nguồn cung từ Vinachem cùng với của Nhà máy đạm Phú Mỹ được hy vọng là sẽ giúp thị trường phân bón bình ổn trở lại trong thời gian ngắn tới đây.


VietGAP chăn nuôi  DPM cũng cho biết thêm thời gian qua Tổng Công ty bước đầu đã đạt được hiệu quả tích cực từ việc áp dụng chính sách giá bán sát với giá thị trường. Theo DPM, liên tục từ đầu năm 2011, giá phân đạm trên thị trường quốc tế luôn diễn biến bất thường, giá bao gồm cước vận chuyển về khu vực Đông Nam Á từ mức 400USD/tấn vào tháng 1/2011 hiện nay đã tăng lên hơn 500 USD/tấn tăng hơn 40%. Đồng thời, do một số bất ổn tại các khu vực thị trường nên nguồn cung không ổn định và lượng hàng được tập trung sẵn để giao rất hạn chế. Tại thị trường trong nước, từ trước tháng 03/2011, giá bán Đạm Phú Mỹ được định thấp hơn giá thị trường từ 10-15%. Do có sự chênh lệch giữa giá trong nước và giá quốc tế nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón khó triển khai nhập khẩu, dẫn đến tình trạng thiếu hàng, đầu cơ hàng, trong khi đến 50% lượng phân đạm sử dụng trong sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.Trước tình hình trên, theo chủ trương đã được các Bộ, ngành liên quan bao gồm Bộ Công thương, Bộ Tài chính và Cục quản lý giá và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, bắt đầu từ quý 2/2011, DPM đã triển khai áp dụng chính sách bán Đạm Phú Mỹ theo giá trần” sát với giá thị trường, đăng ký và công bố giá rộng rãi, tăng giá có lộ trình nhằm tránh việc gây sốt giá, đầu cơ, tích trữ tại các đại lý trung gian và kích thích các doanh nghiệp khác nhập khẩu hàng bổ sung nguồn cung cho thị trường. Việc Đạm Phú Mỹ được bán sát giá thị trường đã có tác dụng tích cực, đã khuyến khích và thúc đẩy các nhà kinh doanh phân bón tăng cường nhập khẩu để bổ sung thêm nguồn cung cho nhu cầu nội địa, giảm thiểu nguy cơ gây sốt giá. Cụ thể, lượng phân đạm nhập khẩu trong tháng 4 đạt hơn 134,000 tấn, bằng 3 tháng trước đó cộng lại và tính chung cho cả quý 3, lượng phân đạm nhập khẩu đạt hơn 200,000 tấn, cao hơn 60,000 tấn so với quý 1, bổ sung đáng kể cho nguồn cung trong nước. Riêng DPM từ đầu năm đến 31/05 đã nhập khẩu gần 80,000 tấn phân bón các loại. Do vậy, mặc dù Nhà máy Đạm Phú Mỹ dừng 1 tháng để sửa chữa bảo dưỡng từ 15/05 đến 15/06/2011 và giá thế giới tăng cao nhưng do lượng phân bón nhập khẩu về tương đối dồi dào nên thị trường trong nước đã không xảy ra hiện tượng thiếu hàng dẫn đến giá tăng đột biến. CôngThương - Thời gian gần đây, giá phân bón trên thị trường thế giới và trong nước đã có nhiều biến động, ảnh hưởng lớn đến giá thành sản xuất lương thực cũng như đời sống của người nông dân. Giá nhập khẩu Ure bình quân từ mức 292 USD/ tấn năm 2009 đã tăng lên mức 322 USD/tấn năm 2010 và hiện ở mức khoảng 380 USD/tấn năm 2011. Giá bán lẻ Urê trong nước cũng tăng liên tục, từ mức 6.000-6.500 đ/kg năm 2009 đã tăng lên mức 8.000-9.500 đ/kg cuối năm 2010 đầu năm 2011. Nhà nước đã đưa phân bón vào trong danh mục các mặt hàng thiết yếu thuộc diện bình ổn giá, áp dụng nhiều biện pháp điều hành trực tiếp hoặc gián tiếp như: điều hòa cung cầu, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu 0%, ưu đãi giá đầu vào đối với một số loại phân bón sản xuất trong nước trong đó có phân đạm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý, điều hành giá, triển khai các biện pháp bình ổn giá còn có những bất cập nên thị trường phân bón nhiều năm qua đã xảy ra những diễn biến không bình thường: có lúc, có nơi đã xảy ra những cơn sốt tăng giá quá cao hoặc có lúc giá giảm xuống quá thấp, không hợp lý gây bất ổn định cho nền kinh tế. Do vậy, theo các chuyên gia kinh tế, để chủ động hơn trong việc kiểm soát sự biến động của giá bán lẻ phân bón, các cơ quan quản lý Nhà nước cần kiểm soát chặt các yếu tố hình thành giá, tổ chức xây dựng hành lang pháp lý để các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có được hệ thống phân phối minh bạch từ khâu bán buôn đến bán lẻ đến tay người nông dân. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phân bón cần chủ động dự trữ phân bón để sẵn sàng cung ứng khi thị trường biến động lớn hoặc mất cân đối cung cầu. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cho biết, Tổng công ty phân bón và hóa chất dầu khí PVFCCo, ngoài việc nhập khẩu khoảng 130-200.000 tấn/năm và duy trì mức dự trữ tối thiểu 70.000 tấn/năm, từ năm 2004 đến nay, Nhà máy đạm Phú Mỹ của PVFCCo đã cung cấp gần 5 triệu tấn phân đạm chất lượng cao ra thị trường, đáp ứng khoảng 40% nhu cầu của cả nước, đóng góp lớn vào việc bình ổn thị trường phân bón trong nước. Riêng trong tháng 8/22011, Tổng công ty đã ký hợp đồng nhập khẩu hơn 40.000 tấn phân bón các loại chủ yếu là urê trong đó có khoảng 5.500 tấn urê đã về trong nửa đầu tháng 8 để tăng cường nguồn hàng cung ứng cho khu vực miền Trung và Đông Nam bộ. Lượng hàng còn lại sẽ về đến Việt Nam trong tháng 9 và đầu tháng 10 tới, đáp ứng kịp thời nhu cầu mùa vụ trong cả nước. Hiện nay, Tổng công ty luôn duy trì nguồn hàng dự trữ tối thiểu là 70.000 tấn urê tại các kho trung chuyển, sẵn sàng đáp ứng hàng ra thị trường khi có nhu cầu. Trong 8 tháng, PVFCCo đã sản xuất được 510.000 tấn Đạm Phú Mỹ và nhập khẩu gần 100.000 tấn phân bón khác để phục vụ trong nước. Dự kiến cả năm nay, Tổng công ty sẽ sản xuất được 770.000 tấn urê Phú Mỹ và tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu 250.000 tấn phân bón các loại. Hiện PVFCCo đang cung ứng khoảng 50% tổng nhu cầu phân đạm của cả nước./. Hà Huy Hiệp TTXVN/Vietnam+. Ông Trương Hợp Tác ở Cục Trồng trọt cho biết, qua khảo sát cho thấy, hiệu quả sử dụng phân urê mới đạt 30%-45%, phân lân 40%-45%, kali 40%-50%. Như vậy còn lại 60%-65% lượng urê, tương đương 1,17 triệu tấn; 55%-60% lân khoảng 2,07 triệu tấn và 55%-60% kali khoảng 344.000 tấn chưa được sử dụng, phải thải ra môi trường, vừa gây lãng phí và ô nhiễm. Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam Lê Quốc Phong cho biết, từ năm 2006, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam nghiên cứu hiệu quả của hoạt chất Agrotain trên lúa và một số cây trồng cạn như hợp quy, phân bón bắp ngô, khổ qua mướp đắng, dưa leo và cải xanh ở Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang và TPHCM huyện Củ Chi. Sau 2 năm khảo nghiệm hoạt chất Agrotain đã cho kết quả vượt trội, giảm được lượng phân bón urê từ 20%-25%, năng suất lúa lại tăng thêm 320-400kg/ha, qua đó lợi nhuận tăng thêm khoảng 1 triệu đồng/ha so với giá lúa năm 2007. Nếu tính theo giá lúa hiện nay thì lợi nhuận còn cao hơn. Trên cây trồng cạn như dưa leo, khổ qua cũng giảm phân urê từ 20%-30%, năng suất cao hơn so với cây không sử dụng phân bón thường. Vì vậy, năm 2007 Viện Lúa ĐBSCL đề nghị đưa sản phẩm urê trộn hóa chất Agrotain với tên gọi Golden-N để khuyến cáo rộng rãi cho bà con nông dân, góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm nhập khẩu urê. Hiện nay một số công ty sản xuất phân bón NPK đưa vào sản xuất theo dạng này, đang góp phần vào việc nâng cao thu nhập cho người dân. Theo ông Lê Quốc Phong, việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu làm tăng hiệu lực sử dụng phân bón là điều cần thiết. Đồng quan điểm này, ông Trương Hợp Tác đề nghị, nên bón phân cân đối, sử dụng phân bón có hoạt chất làm tăng hiệu quả sử dụng như NEB 26 có khả năng tiết kiệm 50% lượng urê sử dụng so với thông thường, Agrotain tiết kiệm khoảng 20% lượng đạm sử dụng. Ngoài ra nên sử dụng phân bón chậm tan, phân urê hạt đục và to, phân có vỏ bọc, sử dụng phân bón qua lá… Cùng với các biện pháp cải tiến kỹ thuật canh tác trong sản xuất, nhất là cây lúa như 3 giảm 3 tăng, canh tác theo cánh đồng mẫu lớn hướng đến sản xuất theo VietGAP, GlobalGAP và sử dụng phân bón chuyên dùng có hoạt chất chống thất thoát đạm như Agrotain, NEB 26 cần được nhân rộng, góp phần vào việc giảm chi phí sản xuất, tăng thêm lợi nhuận cho bà con nông dân. ĐĂNG LÃM .. Bà Phạm Thị Lý: Trên bao bì, nhà sản xuất đều in các loại hoa nên tôi mới dùng bón cho cây mai”. Phân bón giả không chỉ làm hại nông dân mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh trung thực như Đạm Phú Mỹ ảnh. Ảnh TL SGT. Ước tính, nguồn cung trong nước đạt khoảng 3,6 triệu tấn, trong khi lượng phân bón sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 2,5 triệu tấn, như vậy các doanh nghiệp sẽ phải nhập khẩu khoảng 1 triệu tấn. Ông Nguyễn Đình Hạc Thúy, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết cung và cầu trên thị trường phân bón trong những tháng cuối năm sẽ không có biến động lớn do các nhà máy sản xuất phân bón trong nước hoạt động trở lại và tăng công suất nên nhu cầu phân bón như urê, NPK và một số loại khác có khả năng sẽ đáp ứng đủ. Bên cạnh đó, vụ đông xuân trên thế giới chỉ còn khâu bón lót nên giá phân bón thế giới dự báo sẽ giảm. Riêng phân DAP thì vẫn ở mức cao do giá thế giới tăng, nhưng dự báo nhu cầu trong nước sẽ không thiếu lắm. Về thực trạng giá phân bón thế giới hiện cao hơn trong nước, tiến sỹ Nguyễn Huy Phiên, Viện Khoa học Công nghiệp Việt Nam nhận định thế giới sản xuất phân bón từ khí thiên nhiên, dầu với khí liên quan mật thiết với nhau vì vậy giá dầu lên thì giá khí cũng lên, còn tại Việt Nam thì phân bón được sản xuất một nửa từ khí, một nửa từ than nên giá trong nước hiện thấp hơn so với giá thế giới. Phân bón là một trong những mặt hàng chiến lược phục vụ cho sự phát triển của nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đồng thời có thể xuất khẩu trong bối cảnh diện tích canh tác ngày càng bị thu hẹp do biến đổi khí hậu, đô thị hóa… ngành phân bón Việt Nam phấn đấu đến năm 2020, hình thành hệ thống sản xuất phân bón công nghệ hiện đại, quy mô lớn và hệ thống phân phối an toàn, hiệu quả nhằm cung ứng đủ về số lượng và chủng loại phân bón với chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Theo đó sẽ dần dần đáp ứng nhu cầu về phân đạm, phân lân, phân kali, các loại phân bón trung lượng và vi lượng; tổ chức hệ thống các cơ sở sản xuất phân hỗn hợp NPK hợp lý, chất lượng tốt phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng cây trồng, từng vùng đất; bố trí hệ thống phân phối an toàn, đảm bảo cung ứng kịp thời các loại phân bón cho nông dân; đảm bảo ổn định thị trường phân bón trong nước./. Hoàng Linh TTXVN/Vietnam+. Phát huy truyền thống tốt đẹp âý, hơn chín tháng đâù năm qua, bên cạnh việc duy trì sản xuất ổn định, nâng cao chất lượng sản phẩm thì Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao rất chú trọng đến lĩnh vực mở rộng thị trường trong và ngoài nước vơí phương châm ưu tiên cho nông dân. Vơí số tiền đâù tư là 4 tỷ 380 triêụ đồng, Công ty đã tổ chức có hiêụ quả nhiêù Hôị nghị tuyên truyền hướng dẫn sử dụng phân bón Lâm Thao. Thông qua các Hôị Nông dân, Hôị Phụ nữ, Trung tâm Khuyến nông, Bảo vệ thực vật... Thông tin từ các Hôị nghị đã giúp bà con nông dân hiêủ thâú đáo và sâu sắc hơn về tính chất và những ưu việt của sản phẩm phân bón Lâm Thao, đó là: Trong phân bón Lâm Thao ngoài thành phần đạm, lân, kali còn được bổ sung thêm các nguyên tố trung, vi lượng cần thiết cho cây trồng như canxi, magiê, lưu huỳnh... Riêng thành phần lân có trong NPK-S Lâm Thao gồm hai loại là lân dễ tan trong nước và lân không tan trong nước, giúp cây nảy mầm phát triển bộ rễ nhanh, do đó khi cây lớn lên, bộ rễ phát triển tiết ra axít yêú để hấp thụ lân tốt nên hiêụ quả bón phân sẽ cao hơn. Vơí những đặc tính ưu việt đó, phân bón Lâm Thao phù hợp vơí nhiêù loại cây trồng và chất đất khác nhau, từ các vùng đất trung tính cũng như các vùng đất chua, đất chiêm trũng, đất phèn... Đồng thơì, giúp bà con nông dân nắm được phương pháp bón phân cân đôí, khép kín bằng NPK-S Lâm Thao cho các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng, đó là từ khi gieo trồng đến khi thu hoạch chỉ sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao mà không cần bón thêm các loại phân bón khác ngoài phân chuồng, phân hưũ cơ, khi bón lót dùng NPK-S 5.10.3-8, 8.10.3-9; bón thúc dùng NPK-S 12.5.10-14, góp phần tăng năng suất cây trồng và chất lượng nông sản tốt. Để minh chứng cho những hướng dẫn sử dụng phân bón Lâm Thao là có cơ sở khoa học, Công ty đã phôí hợp vơí các địa phương xây dựng các mô hình trình diễn, khảo nghiệm trên các loại cây trồng ở mọi chất đất của các vùng miền khác nhau vơí 162 mô hình cấp tỉnh, 592 mô hình cấp huyện và cấp xã vơí tổng diện tích 1.374 ha; số tiền Công ty đâù tư là gần 12 tỷ đồng. Tất cả các mô hình âý đêù cho năng suất cao tăng từ 10 đến 25%, chất lượng sản phẩm tốt và hiêụ quả kinh tế rõ rệt. Nhận thâý hiêụ quả của chương trình giao lưu trực tiếp vơí bà con nông dân trên sóng truyền hình các tỉnh, Công ty tiếp tục tổ chức năm chương trình giao lưu vơí khán giả nhà nông trực tiếp trên đài truyền hình các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hòa Bình, Đác Nông, Lâm Đồng. Thông qua truyền hình trực tiếp, lãnh đạo và cán bộ kỹ thuật Công ty sẽ trao đôỉ vơí bà con nông dân, hướng dẫn từng chi tiết về quy trình bón phân khoa học để tăng hiêụ quả sản xuất nông nghiệp đó là: Ở giai đoạn đâù cây trồng cần nhiêù lân để hình thành và phát triển bộ rễ, tăng khả năng chống chịu thơì tiết bất lơị như chống rét cho cây, giai đoạn này cây trồng cần đạm và kali ở mức độ vưà phải nên chỉ dùng phân bón lót NPK-S 5.10.3-8; ở giai đoạn sau cây trồng cần nhiêù đạm để kích thích sự đẻ nhánh, phát triển thân lá, phân cành làm tăng sinh khôí, cây trồng cần nhiêù kali làm cho cây cứng cáp, kích thích sự ra hoa làm chắc quả, chắc củ, sáng hạt nên nhu câù lân của cây trồng thấp hơn, do đó chỉ dùng phân bón thúc NPK-S 12.5.10-14; đồng thơì giúp bà con nông dân phân biệt được phân bón thật và phân bón giả... Song song vơí truyền hình trực tiếp tại các tỉnh, Công ty đã phôí hợp xây dựng clip quảng cáo về phân bón của Công ty phát sóng quảng cáo trên Đài Truyền hình trung ương, trên các đài địa phương, bài viết phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Đây chính là hình thức giơí thiêụ sinh động và chân thực nhất về sản phẩm của Công ty, giúp ngươì tiêu dùng dễ nhận biết và đặt niềm tin vào sản phẩm phân bón Lâm Thao. Vơí việc làm tốt công tác thị trường âý, sản phẩm phân bón Lâm Thao, nhất là NPK-S Lâm Thao không những đã đứng vững trên thị trường trong nước, thị phần được mở rộng mà các sản phẩm Supe lân hạt, lân nung chảy Lâm Thao đã được thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc chấp nhận, góp phần tăng sản lượng tiêu thụ trong chín tháng đâù năm của Công ty. Từ chất lượng sản phẩm và sự tín nhiệm sẵn có của phân bón Lâm Thao kết hợp vơí việc làm tốt công tác thị trường, chín tháng qua sản lượng bán ra của hợp quy, phân bón phân bón Lâm Thao đã tăng lên đáng kể, trong đó Supe Phốt phát tăng 98,28% so vơí cùng kỳ; NPK-S tăng 100,63% so vơí cùng kỳ; Lân nung chảy tăng 96,76% so vơí cùng kỳ. Sự ổn định và tăng trưởng trong chín tháng đâù năm là tiền đề cho việc hoàn thành toàn diện kế hoạch sản xuất, kinh doanh của Công ty. Thơì gian tơí, Công ty tiếp tục tiến hành các hoạt động tuyên truyền quảng bá sâu rộng về sản phẩm phân bón Lâm Thao tại tất cả các địa phương trong cả nước, cũng như nâng cao hơn nưã môí quan hệ gắn bó mật thiết vơí bà con nông dân để làm nên những mùa vàng bôị thu. HOA MUA .

.